VẦN THƠ NGƯỜI MẤT TRÍ
Vừa nghe một người bạn phương xa, rất có cảm tình với miền sông Đồng núi Bửu,nhắc đến Bác Sĩ Nguyễn Văn Hoài, lòng tôi bỗng da diết nhớ về quê hương tôi- Biên Hoà xứ Bưởi có một “trại điên” nhốt những người loạn trí- Trại nầy do người Pháp lập nên vào năm 1914 và đã nhiều lần thay đổi “bảng tên”, khi thì Trại Điên, khi “Nhà Thương Điên”, khi thì “Dưỡng Trí Viện Biên Hoà”, khi thì “Bịnh Viện Tâm Thần”, mà Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài là Việt đầu tiên được bổ nhiệm làm Giám Đốc thay thế một Bác sĩ người Pháp tiền nhiệm vào năm 1929.
Vừa nghe một người bạn phương xa, rất có cảm tình với miền sông Đồng núi Bửu,nhắc đến Bác Sĩ Nguyễn Văn Hoài, lòng tôi bỗng da diết nhớ về quê hương tôi- Biên Hoà xứ Bưởi có một “trại điên” nhốt những người loạn trí- Trại nầy do người Pháp lập nên vào năm 1914 và đã nhiều lần thay đổi “bảng tên”, khi thì Trại Điên, khi “Nhà Thương Điên”, khi thì “Dưỡng Trí Viện Biên Hoà”, khi thì “Bịnh Viện Tâm Thần”, mà Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài là Việt đầu tiên được bổ nhiệm làm Giám Đốc thay thế một Bác sĩ người Pháp tiền nhiệm vào năm 1929.
Bác
sĩ Nguyễn Văn Hoài cùng ban điều hành bệnh viện nầy đã hết lòng chăm sóc sức
khoẻvà điều trị cho những người bệnh loạn trívới niềm mong muốn họ chóng được
bình phục và sớm về với gia đình.Những người được đưa đến nơi đây, hầu hết là
những người điên ở nhiều cấp độ khác nhau.Trại nầy, trong những ngày tháng đầu
tiên, thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp nhốt phần đông những người điên vì thời
cuộc, những người trí thức yêu nước thương dân, nhưng không có phương tiện đấu
tranh, không có phương cách giúp cho đất nước thoát khỏi cảnh bị Pháp đô hộ; họ
suy nghĩ quá nhiều hoá ra điên loạn…Rồi nơi đây, dần dà thu nhận càng ngày càng
đông đủ moi dạng người điên; điên vì tình phụ, yêu người mà chẳng được người
yêu; điên vì thi trợt, lỡ bước công danh; điên vì gặp hoàn cảnh đời nghiệt ngã…
Tôi
và người bạn đời của tôi thỉnh thoảng có nhiều dịp tham quan khu Dưỡng Trí Viện
Biên Hoà và cảm thấy thương xót vô cùng cảnh đời của người điên loạn.Tôi tiếp
xúc với những người điên “tỉnh”, có nhiều người là viên chức, hoặc văn nhân thi
sĩ. Tôi lại thích thú sưu tầm những vần thơ “điên” của các thi sĩ chọn nơi nầy
làm nơi nương náo, hoặc những vần thơ của những kẻ thất chí, tâm hốn nửa điên
nửa tỉnh trong xã hội đầy rẫy bất công, mà họ không thể giúp được gì cho quê
hương xứ sở, họ mượn rượu giải sầu, tìm quên đời sống hiện tại, tâm trạng lúc
nào cũng như một người điên, họ viết lên những lời thơ diễn tả thân phận lẻ loi,
bất lực trong thời kỳ đất nước bị người Pháp cai trị, hoặc diễn tả kiếp người
trong xã hội lầm than…
Tôi
khởi đầu bằng những vần thơ của Bùi Giáng. Bùi Giáng
là một thi sĩ nổi tiếng, một
giáo sư dạy Việt Văn cho nhiều trường trung học tư thục ở Sài Gòn vào thập niên
50, 60 ; nhưng ông có một thời gian là người khách quen thuộc của Dưỡng
Trí Viện Biên Hoà.
Hỏi tên? Rằng biển
xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa.
Gọi tên là một hai ba,
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Hỏi về tiểu sử, Bùi Giáng trả lời)
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa.
Gọi tên là một hai ba,
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Hỏi về tiểu sử, Bùi Giáng trả lời)
Người điên ngôn
ngữ điệp trùng
Dở chừng như mộng
dở chừng như mê
Thưa em ngôn ngữ
quặt què
Làm sao nói được
nghiệp nghề người điên
(Người điên)
Lớp phiêu bồng mọc trăng ngàn
Thành xưa phố cũ muôn vàn phía sau
Ðạp thanh vẽ bóng lộn mầu
Góp dâng cữ gió nghiêng đầu sương mây
Ngõ ban sơ hạnh ngân đài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Xin chào giữa bước chân ra
Chết từ sơ ngộ mầu hoa trên ngàn
(Mầu hoa trên ngàn)
Thành xưa phố cũ muôn vàn phía sau
Ðạp thanh vẽ bóng lộn mầu
Góp dâng cữ gió nghiêng đầu sương mây
Ngõ ban sơ hạnh ngân đài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Xin chào giữa bước chân ra
Chết từ sơ ngộ mầu hoa trên ngàn
(Mầu hoa trên ngàn)
Hồng quần rất mực bước ra
Trường quần duệ địa phong hoa lá cồn
Phải rằng nắng quáng dập dồn?
Hay là đèn trút linh hồn oái oăm?
Phải là nguyệt giữa đêm rằm?
Nguyên tiêu lãng đãng lá nằm ngẩn ngơ?
Kể từ hằng thủy ban sơ?
Kể từ sơ thủy về tờ vẽ trang?
Kể từ thu tạ lên đàng?
Rừng phong thu đã quan san nhuộm mầu?
Phải rằng đó trước kia sau?
Hay là sau trước còn tao ngộ gì?
(Con đường ngả ba)
Trường quần duệ địa phong hoa lá cồn
Phải rằng nắng quáng dập dồn?
Hay là đèn trút linh hồn oái oăm?
Phải là nguyệt giữa đêm rằm?
Nguyên tiêu lãng đãng lá nằm ngẩn ngơ?
Kể từ hằng thủy ban sơ?
Kể từ sơ thủy về tờ vẽ trang?
Kể từ thu tạ lên đàng?
Rừng phong thu đã quan san nhuộm mầu?
Phải rằng đó trước kia sau?
Hay là sau trước còn tao ngộ gì?
(Con đường ngả ba)
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
Ðộng hờ hững chúa điêu linh
Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
Nhà ma cửa quỷ đi đời
Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
Ðộng hờ hững chúa điêu linh
Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
Nhà ma cửa quỷ đi đời
Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
Chạy quang cồn cụm lá già
Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng
Càn khôn gió đổ chất chồng
Rú như beo rống như hùm đổi hang
Trên rừng dưới lũng tan hoang
Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
Chạy quang cồn cụm lá già
Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng
Càn khôn gió đổ chất chồng
Rú như beo rống như hùm đổi hang
Trên rừng dưới lũng tan hoang
Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
Em về mấy thế kỷ
sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi còn giữ đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi còn giữ đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
Một hôm gầu guốc gầm ghì
Hai hôm gần gũi cũng vì ba
hôm
Bôm ha?đạn hả? Bao gồm
Gồm bao gạo đỏ bỏ gồm gạo
đen
Câu thơ viết ngắn
viết dài
Ghép làm một mảnh
miệt mài cho nhau
Ghép thật chậm
ghép thật mau
Ghép lui ghép tới
ghép gào rống tru
(Câu thơ viết ngắn)
Tôi ngồi chép mãi
bài thơ
Quẩn quanh vần
điệu bao giờ cho xong
Ðôi phen lệ chảy
ròng ròng
Tâm tình kín đáo
giòng giòng tuôn ra
Tiếng cười tiếng
khóc tiếng ca
Tưởng chừng khép
mở màu hoa mấy mùa
(Chuyện bữa trước
bữa sau)
Mỗi ngày thân thể
mỗi gầy
Mỗi năm tim máu
mỗi nhầy nhụa ra
(Mỗi ngày)
Và tiếp theo đây là những
vần thơ của những người điên “tỉnh”, từng trải qua một thời gian ở“Nhà Thương
Điên Biên Hoà” viết, do thi sĩ Kỳ Linh sưu tầm …tôi mượn ghi ra đây, để các bạn
đọc giải trí nhân dịp xuân về và bỏ ra vài giây phút thương cảm cho hoàn cảnh của
những người điên loạn, sống với thân phận con người đã mất bản năng về trí tuệ; với
đầu óc có lúc rỗng không, có lúc như một
mớ bồng bông ảo ảnh loạn cuồng, họ hành động hoàn toàn vô ý thức, chợt nhớ chợt
thương, chợt buồn, chợt giận… Những vần thơ dưới dây, có vần thẳng như ruột
tượng, nói toạc móng heo, nhưng cũng có những vần, đọc rồi, đến ba ngày sau mới
thấm…Từng đoạn thơ dưới đây do người sưu tầm đặt tựa.
THƠ ĐIÊN
Biên Hoà có một “nhà thương”
Người điên khắp xứ về nương chốn nầy
Có người oán ghét thằng Tây
Có người thù hận cả bầy Tàu man
BẦU TÂM SỰ
Có người hết khóc lại
cười
Hết cười lại khóc hết
ngồi lại đi
Con người có lúc có
khi
Hết điên rồi tỉnh có
gì lạ đâu
Lạ chăng có đứa mang bầu
Không tuôn ra hết…cho
sầu rụng rơi
Vui chăng ? Sao
chẳng dám cười !
Nhìn trời để hở đến
mười cái răng
MỘNG GỐI CHĂN
Ta mơ khoảnh khắc hồn
điên dại
Để được cùng ai mộng
gối chăn
Để được vai kề môi má
cận
Rồi cùng tan biến giữa
không trung
HÃY NGHE ĐÂY
Bỗng dưng trời đất
xui ta đến
Giữa chốn loạn cuồng
để gặp anh
Giấc mộng trở màu
điên thác loạn
Nguồn vui nghiêng ngã
bóng thiên đường
Tất cả loã lồ không
che đậy
Những người nhắm mắt hãy
nghe đây
CUỒNG ĐIÊN TÍM BẾN
Ta về thầm nhủ với
lòng
Phù vân tình mộng một
dòng trôi xuôi
Tìm quên hương vị
cuộc đời
Xuân qua hạ đến thu
rồi sang đông
Cũng đành tiễn sáo
sang sông
Cuồng điên tím bến lạnh
dòng Phố Giang
SẦU CHIA NHÁNH
Ta điên ta ngủ vùi
năm tháng
Cho nhạt hương đời
lạc dấu yêu
Không gian điên loạn
sầu chia nhánh
Con dế phiêu bồng vỗ
cánh xiêu
ĐIÊN LOẠN LÀ TA
Tiên bị đoạ đày tiên
lộn kiếp
Một mình lạc lõng
giữa trần ai
Chao ơi! Năm tháng
nhoà hương sắc
Điên loạn là ta chốn đoạ
đày
TÌNH TRỐNG KHÔNG
Người ta say rượu ta điên
tình
Nó mặt áo vàng hoa
cúc xinh
Còn ta trần trụi theo
năm tháng
Nhìn mấy vòng eo thấy
phát kinh
Nó gọi tình yêu tình
đứng lại
Còn ta gọi mãi …tình tình
tinh !
TÌM NÀNG TIÊN NÂU
Người ta đãi cát tìm
vàng
Còn tôi đãi cát tìm
nàng tiên nâu
Bên em đốt lửa giải
sầu
Ngày đêm nhả khói bên
lầu phù dung
Sắc hương lãng đãng
chập chùng
Áo mây khép nép lưng
chừng phố hoa
Ô kìa – em đã thành
ma…
Còn ta là quỉ là đà…sương
bay
ĐI MÃI…
Đối diện với lương tâm
Ăn năn và hối lỗi
Người điên không có
tội
Người say quên lối về
Một đi không trở lại
Đời trần trụi còn chi
Cứ đi và cứ đi
Dù bước trên gai nhọn
Hoặc vào nơi lửa đạn
vẫn cười và vẫn đi…
cho đến khi ngã gục
Vẫn cười - Đời- Hi
hi!
BUỒN THÂN PHẬN
Tôi xin bạn chớ cười
tôi
Tôi điên mới tỉnh nên
ngồi lại đây
Vần thơ tròn mấy ngón
tay
Ngón dài ngón ngắn
ngón ngay ngón ngầu
Sương khuya rơi ướt
mái đầu
Buồn thương thân phận
nỗi sầu chiến chinh
VẦN THƠ CUỐI MÙA
Dòng sông bên lở bên
bồi
Đến khi nước cạn bãi
lòi cát trơ
Thương sao kiếp tằm
nhả tơ
Tâm tư cạn kiệt vần
thơ cuối mùa
Vần thơ bán chẳng ai
mua
Cho không ai nhận…
cợt đùa bướm hoa
Có người đứng giữa
mưa…ca
Có người đứng khóc
giữa tà huy bay
HOA ĐÁ
Một dòng sông tịnh –
dòng sông
Một dòng uốn khúc tao
phùng phù vân
Từ em trần trụi hoá
thân
Một nàng tiên giữa
phong trần say mê
Ta đi nhặt ánh trăng
thề
Cho loài hoa đá tái
tê hương lòng
THUỞ NON LÒNG
Kìa ai hát khúc điên
khùng
Giữa đêm trường hận
mưa phùn ngất ngây
Thôi anh! Mình hãy đi
về
Ôm nhau thầm lặng tái
tê phiêu bồng
Yêu anh từ thuở non
lòng
Bây giờ em đã mất
chồng quên con
TÌNH THEO MÃI
Mộng tàn theo nước
mắt rơi
Nỗi buồn đến cuối nẻo
đời chưa tan
Em đi chân bước hai hàng
Tình yêu bất tử cưu
mang suốt đời
Tình theo em mãi anh
ơi !
Bao giờ đốt lửa hẹn
thời phùng sinh ?!
THƯƠNG ĐẾN RÃ RỜI
Những vần lục bát nổi
trôi
Xa căm đến tận phương
trời dở dang
Chiều nay rây rứt con
tim
Mà sao anh chẳng đi
tìm người thương
Tại vì gió cát bụi
đường ?!
Quên em từ thuở phố
phường tả tơi
Một người thầm lặng anh
ơi
Thương sao thương đến
rã rời cuồng điên
CHO SẦU ĐÂM NHÁNH
Cuộc đời như chuyện
dòng sông chảy
Sáng xuống chiều lên
ngọn thuỷ triều
Có những nỗi buồn vô
duyên cớ
Điên cuồng tôi vớt…
gói vào đây
Mỗi ngày chẻ nỗi buồn
ra
Cho sầu đâm nhánh
chia xa cõi gầy
KHÉP KÍN CUỘC ĐỜI
Người ta đi học nên
quan
Còn tôi đi học lầm
than cuộc đời
Chiều lên nắng xuống
ơ hờ
Trại điên khép kín
cuộc đời từ đây
HỜI HỢT QUÊN
Người ta đi học nên
khôn
Còn tôi đi học vùi chôn
cuộc đời
Người ta muôn nét vẽ
vời
Còn tôi chỉ một lối hời
hợt quên
Y CHANG
Cuộc đời sân khấu y
chang
Con mặc áo đỏ thằng
quàng khăn đen
Ba hồi chiêng trống –Thùng !
cheng !
Thi nhau cắn lộn
thằng điên con khùng
Gườm nhau mấy độ tương
phùng
Tối ngủ chung mùng …đến
bảy đứa con
GIÀ ĐIÊN
Ai đoán ngày mai trời
nổi bão
Cho đời gió bụi cuốn
hồng nhan
Chưa già –Thiên hạ
tôn bà lão
Chống gậy về trời
biệt thế gian !
THOÁNG HIỆN QUA HỒN
Câu thơ buồn khóc ngẩn
ngơ
Ca dao đứng lặng bên
bờ ly tan
Truyện Kiều học lóm
đôi hàng
Đã nghe tim vỡ hồn
tan giữa trời
Nghiêng đầu cắn chặt
vành môi
Để nghe rỉ máu lòng
sôi sục buồn
Bóng ai thoáng hiện
qua hồn
Dung nhan kiều diễm
đẫm nguồn cội xưa
GIỮA DÒNG CUỒNG LƯU
Tập thơ không tựa
Bài thơ vô đề
Đặc san ‘‘Ki Cóp Gió
Gì’’
Bút cong bút gẫy bút
tê tái lòng
Bút buồn – anh biết
hay không ?
-Thì ra anh tỉnh giữa
dòng cuồng lưu
NGÀY SANH TÔI VỀ
Sao anh cứ mãi đèo
bồng
Không thương con vợ
gánh gồng nuôi anh
Thì thôi ! Thôi
thế cũng đành
Chào anh lặng lẽ ngày
sanh tôi về !!
QUE DIÊM TẮT RỒI
Nhìn mây phiêu lãng bên
trời
Nương theo khói thuốc
chơi vơi nỗi buồn
Hỏi người xa xứ nghe
không ?
Lập loè tình mộng trở
trăn kiếp người
Nhìn que diêm đã tắt
rồi
Tiếc làm chi nữa cuộc
đời đã đi
Đừng than thở nữa làm
gì
Cánh song sắt khép
tình suy chợ tàn !
NỬA VỜI
Tôi theo cánh hạc nửa
vời
Nửa vi vút gió nửa
khơi dòng sầu
Nửa vầng trăng bạc
mái đầu
Nửa banh cong gãy
chìm sâu lũng tình
Nửa dòng hương khói
lung linh
Nửa mùa thu chết bóng
hình ly tan
Nửa thương nửa nhớ
bàng hoàng
Nửa chờ nửa đợi mùa
sang theo mùa
Nửa dung nhan trước cổng
chùa
Nửa dòng sầu thảm nửa
thưa thớt buồn
Người đi quạnh vắng qua
hồn
Nửa sương giá lạnh
nửa nguồn hoang sơ
Sau đây là những vần thơ của Nguiễn Ngu Í, một khách
hàng quen thuộc của nhà thương Chợ Quán và Dưỡng Trí Viện Biên Hoà. Ông tên
Nguyễn Hữu Ngư. Từ thuở thiếu thời ông đã tỏ ra ngơ ngẩn lạ kỳ, nên gia đình
thường gọi ông là Ngư khùng Ngư điên. Ông từng là giáo sư dạy học ở Sài gòn, và
dường như có lúc ông làm việc cho hãng Hàng Không Dân Sự Sài gòn(?).Một giai
thoại về ông. Cứ vào mùa hè, khi thời tiết Sài gòn quá oi bức, ông thường tự
động, một mình đi thẳng lên Dưỡng Trí Viện Biên Hoà, xin nhập viện để được điều
trị và tịnh dưỡng mà chẳng báo cho gia đình và sở làm biết, để mặc cho mọi
người phải ‘quýnh đuốc’ đi tìm… Ông đã đóng góp rất nhiều bài thơ cho Đặc San
‘Ki Cób Jó Gì’ do Dưỡng Trí Viện Biên Hoà thực hiện, thời Bác sĩ Nguyễn Tuấn
Anh làm Giám Đốc.
Nhưng mà lạ quá, ôi là lạ
Ngó phía nào đây Trắng cũng theo
Trắng phủ vây tôi, tôi sợ quá
Làm sao trốn Trắng, hỡi người ôi!
Ngó phía nào đây Trắng cũng theo
Trắng phủ vây tôi, tôi sợ quá
Làm sao trốn Trắng, hỡi người ôi!
(Trắng, 1940)
Mắt
mờ đã thấy xiềng nô lệ
Hồn
đi còn mơ gió tự do
Cũng tưởng một đi không trở lại
Nào ngờ duyên nợ lại dằng dai
Bỗng nhiên sực tỉnh nằm trong “khám”
Khám của lòng ai, ai của ai…
Nào ngờ duyên nợ lại dằng dai
Bỗng nhiên sực tỉnh nằm trong “khám”
Khám của lòng ai, ai của ai…
(Tái Ngộ Dưỡng Trí Viện, 1966)
Má
ơi! Con má điên rồi
Má
còn trông đứng trông ngồi mà chi
Nằm
đây mà ngó lên trời
Lá
cây dứa đã mấy đời đong đưa
Nằm
đây mà nhớ mơ hồ
Cây
xanh tóc ấy bây giờ về đâu
Lâu lâu,
có dịp đọc những dòng thơ điên, tôi cảm thấy trong lòng có chút gì lạ lạ, vui vui
qua những dòng tư tưởng phiêu bồng, ý thơ đang vui bỗng đột ngột trở buồn, tiếng
cười rơi từ một độ cao, xuống nửa chừng dừng lại, lơ lửng giữa tầng không, diễn
giải mơ hồ; nhưng cũng có lúc ý tưởng lại quàng xiêng, nhưng nếu chịu khó đọc
lại một lần nữa, chúng ta sẽ bắt gặp được ẩn ý vô tình, thú vị.
Bài viết
nầy tôi không đề cập đến phần tiểu sử của Bác Sĩ Nguyễn Văn Hoài, vì đã có người
bạn trình bày rất tĩ mĩ trong Đặc San 2013 nầy; phần tôi chỉ góp nhặt những vần
thơ điên để cống hiến các bạn đọc vui trong lúc xuân về và cũng để có dịp cảm
thông, xót thương cho thân phận những người tâm trí không được toàn vẹn, vì
hoàn cảnh đời nghiệt ngã, đã làm chấn động phần não bộ, gây nên trạng thái tâm
trí loạn cuồng, thật đáng thương.
Nhân đây
tôi cũng muốn trình bày thêm. Nếu các bạn cảm thấy thích thú, muốn đọc thêm
những vần thơ ‘điên’ của các thi sĩ từng qua ngưỡng cửa Dưởng Trí Viện Biên Hoà,
thì xin mời các bạn vào trang web của Hội Thân Hữu Điện Lực Việt Nam Hải Ngoại
(http://www.thdlvnhn.net) đọc bài “Thơ Của
Người Mất Trí” của tác giả Cổ Lổ Sĩ NTB, trích từ bài “ Bác Sĩ Nguyễn văn Hoài
-Dưỡng Trí Viện Biên Hoà” của một đồng hương Biên Hoà viết vào năm 2007.
Đọc thơ tình
yêu, chiến tranh, hận thù mãi rồi cũng chán; thỉnh thoảng đọc mấy vần thơ điên
của những người điên “tỉnh”, tôi cảm thấy vui và ý vị; thấy lòng mình vui theo
cái “tỉnh” của người vừa được phục hồi tâm trí,hoặc có dịp đắm chìm trong dòng
tư tưởng mờ ảo chập chùng pha lẫn hiện thực không che chắn trong những vần thơ
của những người vừa bước ra khỏi vùng tâm tối loạn cuồng…Tôi rất thích những
vần thơ sau đây.
“Tôi mở
quán cho đời vui chút chút
Bán ruột
gan nhưng để lại tấm lòng”
hoặc:
“Thằng
điên nặng lại ở ngoài
Còn tôi
điên nhẹ vào ngay chốn nầy
Phủ chăn
trùm chiếu tối ngày
Mà sao
họ biết chỉ ngay chỗ nằm”
hoặc: những câu thơ, tôi có dịp đọc trên 40 năm, mà mãi
đến hôm nay, tôi
vẫn chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa, tôi thật sự không biết
thi sĩ Bùi Giáng muốn diễn
tả cái gì, mặc dù lời thơ
rất hoa mỹ và vần điệu êm như ru.
Trút
quần phong nhuỵ cho tà huy bay
(Bùi
Giáng)
Trần
Hà Lộc
Chicago,
ngày 15-10-2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét