Thứ Ba, 29 tháng 3, 2016

TẢN MẠN VỀ MÀU TÍM TRONG THƠ THÁI THỤY VY

TẢN MẠN VỀ MÀU TÍM
TRONG THƠ THÁI THUỴ VY


Tôi hân hạnh được nhà thơ Thái Thuỵ Vy gởi tặng hai tập thơ ‘ Nụ Hôn Loài Lan Tím Dại’ và ‘ Vũ Điệu Loài Lan Tím Hoang’ khá lâu. Tôi định viết ngay một bài tản mạn về Thơ của anh, nhưng mãi đến nay mới thực hiện được. Nói về Thái Thuỵ Vy chắc quí đồng hương cũng đã biết nhiều rồi, anh là nhà thơ xứ Bưởi, tên thật là Đỗ Khoa Luật, đã từng tặng Hội Ái Hữu Biên Hoà, quyển Biên Hùng Liệt Sử do anh biên khảo và nhiều tập thơ do anh sáng tác, ngoài ra anh còn sưu tầm nhiều phương dược thảo, rất có giá trị, đăng trên Bản Tin Hội Ái Hữu Biên Hoà, giúp cho quí đồng hương hiểu biết thêm và tìm xử dụng khi cần. Thật là một cử chỉ đáng khâm phục. Hôm nay tôi viết bài ‘Tản Mạn về Màu Tím Trong Thơ Thái Thuỵ Vy’ coi như tôi trả một món nợ tinh thần, món nợ văn nghệ, không có giấy tờ nhưng vì tự lòng tôi đã hứa.
Nhiều người đọc thơ Thái Thuỵ Vy đều ngạc nhiên, không biết vì đâu mà trong thơ anh lan tràn màu tím. Anh tôn vinh màu tím, anh yêu thương màu tím, anh kết sầu màu tím… đến cả tựa các tập thơ, anh cũng cho khoác màu tím, màu tím của loại lan rừng hoang dại, một loài lan rất dễ tìm thấy trong miền rừng núi Việt Nam.
Sau khi đọc hai tập thơ nói trên của Thái Thuỵ Vy tôi liên tưởng đến ngôi nhà của song thân anh, nơi anh đã sống qua tuổi hoa niên, gần cầu Rạch Cát, cạnh bờ sông Đồng Nai, có vài cây bằng lăng mọc ven sông và thỉnh thoảng có những vạt lục bình trôi phía sau nhà và dường như hàng giậu nhà anh cũng có trồng mồng tơi tím…rồi tôi lại liên tưởng đến anh, một sĩ quan Quân Lực VNCH, rày đây mai đó theo bước quân hành bảo vệ quê hương, có dịp dừng chân trên những đồi sim hoặc thỉnh thoảng nhìn thấy những cụm lan rừng màu tím dại… , rồi tôi lại sực nhớ có lần tôi ghé thăm ngôi nhà Từ Đường của anh (không hân hạnh gặp anh) trong một dịp nào đó tôi không còn nhớ rõ, được anh Đỗ Hữu Cảnh (chú của anh) và Đổ Công Trường (anh của anh) đón tiếp. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy từ trong nhà ra đến ngoài sân, chỗ nào cũng có phong lan, những giò lan tươi đẹp, đủ màu, đủ loại, đáng chú ý nhất là những giò lan tím, duyên dáng, thoáng nét gợn buồn, tôi thầm nghĩ nhà của anh Thái Thuỵ Vy có truyền thống chơi lan, phong cách chơi hoa lan của những gia đình quí phái.
Tôi đoán các màu hoa tím nói trên, lục bình tím, bằng lăng tím, mồng tơi tím, hoa lan tím đã ảnh hưởng nhiều đến tâm hồn nghệ sĩ của nhà thơ Thái Thuỵ Vy và thấy rõ, loài lan rừng màu tím là loại hoa anh thích nhất. Anh đã trang trọng đưa loài lan tím dại lên bìa hai tập thơ đầu tay của anh. Đó là tập ‘Nụ Hôn Loài Lan Tím Dại’ xuất bản năm 1992 và tập ‘ Vũ Điệu Loài Lan Tím Hoang’ xuất bản năm 1994. Anh đã nhân cách hoá loài lan tím dại nầy, rồi say sưa ngắm Nụ Hôn và Vũ Điệu của nó để cho hồn thơ hoà nhập và màu tím có dịp lan tràn khắp vũ trụ và cả lòng người.
Anh Thái Thuỵ Vy thích loại lan rừng màu tím dại vì loại lan nầy rất  dể tìm thấy trong các khu rừng Việt Nam, nhất vùng rừng Nam Cát Tiên, Mã Đà (Biên hoà), mà tôi đã có dịp thấy được hai loại, một loại mọc thành cụm với nhiều cọng bông tím và một loại mọc thành chuổi, bông tím nở li ti, cách nở giống như loài hoa thiết mộc lan, nay nở vài bông, mai nở vài bông, mùi thơm thoang thoảng cả ngày và kéo dài hàng tháng, rất được những người Chơi Lan yêu thích.

 Màu Tím buồn..

Thái thuỵ Vy đem màu tím vào thơ và rất trang trọng đối với loài lan tím dại, cũng như trước đây, nhà thơ Hữu Loan đã từng đưa màu tím vào thơ và rất trân quí loài hoa sim tím.
" ..Những chiều hành quân qua những đồi sim..Màu tím hoa sim tím cả chiều hoang biền biệt… Tôi yêu màu hoa.. Áo anh sứt chỉ đường tà - Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu..."

Và sau đây, tôi xin mời các bạn lắng nghe màu Tím  của vạn vật êm chảy qua từng trang thơ của Thái Thuỵ Vy :

Nơi tôi ở nhiều hoa lan màu tím
Cách nhà nàng qua mấy chấn song xanh
Tuổi học trò tôi viết thơ mực tím
Xếp cánh diều mượn gió gửi thư xanh
Tay nắm tay cùng đón gió muôn phương
Má nàng thơm hương loài lan tím dại
Lan tím hoang nhung nhớ dáng hương rừng
Thiên lý dại vấn vương bàn tay nhỏ
                  (Nụ hôn loài lan tím dại)

Cám ơn đời có em để nhớ
Chiều nay nhìn mây tím lang thang
                           (Bơ Vơ)

Em nhé về đi bóng trải thềm
Hàng cau đứng lịm tím hoàng hôn
                           (Thuở nhớ người) 

Gầy em tím ngát hương trời
Hoa đăng cỏ nội hình hài diệu vơi
                           (Hồn hoa pensée)

Bến vắng cây trâm tím lịm tàng
Với tay níu lại thời gian tím
Quây lưng chợt bốn mắt ngỡ ngàng
                           (Chiều tim tím)

Chiều nay tìm đến vườn xưa
Pensée tim tím nô đùa gió thu
Người đâu chỉ thấy sương mù
Đàn ai thổn thức vi vu phím ngà
                           (Chợt nhớ tàn phai)

Ôi gió ơi ! Thương mây tím hững hờ
Mỏi mê đò dọc xuôi bờ bến mơ
Gốc bằng lăng giò lan tím hương trời
Tôi lên bến nhặt mù u trăn trở
                           (Lớp sóng phù sinh)

Lục bình bông tím trôi hờ hững
Tim nầy tan nát lững lờ trông
                           (Mưa bên sông)

Chiều giăng mắc tím khăn sô
Cánh buồm vô định nắng tô biển hờn
                           (Kẻ chài nhớ biển Thuận)

Cõi trời tim tím hoàng hôn
Cõi đời tơi tả cõi ta oặn buồn
                           (Cõi tình)

Chiều nay mây tím giăng đầu núi
Dạ lững non cao khuất dặm ngoài
                           (Đỉnh sầu)

Bâng khuâng môi tím đứng chờ
Mắt chìm nhung nhớ nhắc lời cố nhân
                           (Lạc loài)

Tiếng tim nhức nhối âm thầm
Thoát ra từ cõi tím bầm nẻo xưa
                           (Tình câm)

Bằng lăng tim tím khóc thầm
Mây trôi vô định trời gầm xa xa
                           (Đường chiều)

Tóc em mây tím lang thang
Anh khung trời cũ bàng hoàng tê môi
                           (Chiếc hôn đầu)

Dĩ vảng ốm nhom vòng tay tím
Mảnh tình gầy guộc khối tình si
                           (Lẻ bạn)

Nhớ thôi em phút chung đôi lạc lối
Nhìn giòng đời tim tím chuổi lang thang
Trong hơi thở nghe linh hồn nức nỡ
Mưa ngoài kia xao xuyến tím long lanh
                           (Còn nhớ mãi)

Nói với em lời hoa tím thì thầm
Cõi sâu kỷ niệm đá ngầm suy tư
Nói với em lời hoa tím thì thầm
Trong khung trời cũ tím bầm nẻo mơ.
                           (Lời hoa tím)

Tóc em xanh biếc cài lan tím
Suối chảy đôi giòng chiếc lược mơ
                           (Nẻo tình ái xa xưa)

Em đã yêu anh lứa tuổi hờn
Yêu hoa lan tím ướp cô đơn
Yêu bằng cuồng dại bằng nhung nhớ
                           (Ngày xưa cuồng ái)
                  (Những câu thơ màu tím trên đây trích trong tập
                                ‘Nụ Hôn Loài Lan Tím Dại’)

Chiếc cầu sắt ngắm sông xanh
Dề lục bình tím chui nhanh dưới cầu

Tím loang vệt tím tím màu
Tím sim màu áo rót vào thời gian
                           (Có một giòng sông tím)

Trên bờ bông tím , ô môi tím
Dưới nước lục bình tím lê thê
Trải bao năm tháng, vui buồn có
Người còn tím mãi lục bình ôi !
                           (Đêm nghe lục bình trôi)

Hoàng hôn nhuộm tím lá khô
Núi rừng im tiếng mây xô nhau về
                           (Hoàng hôn một cuộc tình)

Ngước nhìn mây tím xa xôi
Trong tôi bỗng thoảng một trời nhớ nhung.
                           (Người tình không chân dung)

Thời gian tím ngắt ngàn sao
Đêm về mắt ngọt chao dao rặng sầu
Về đâu tim hỡi về đâu
Cõi đi về, cõi thiên thâu cõi nào ?
                           (Hành trình về cõi tim)

Bến chiều mây tím vương vương
Hồn tôi bỗng nở vô thường đoá hoa
                           (Bên nầy cõi chết)

Lửa phong thắp sáng cõi đời
Núi thay áo tím xuống đồi ngủ yên
Lá thu nằm ngủ triền miên
Có Pensée tím xoay nghiêng gió mùa
                           (Thu tím)

Buồn ơi trời tim tím loang
Trăng về tĩnh mịch đời hoang vắng rồi
                           (Buồn ơi! Đến với ta)
                     (trong tập ‘Vũ điệu loài lan tím hoang’)

Thấy anh Thái Thuỵ Vy yêu màu tím, nhất là loài lan tím dại, nên tôi cũng hoà chút mực tím, viết mấy dòng thơ sau đây để tặng anh, coi như một tâm hồn đồng điệu.

Màu Tím
         Tím từ ly rượu nếp than
         Tím sầu viễn xứ tím trang sử đời
Tím hoàng hôn tím khung trời
Tím lòng lữ khách tím nơi dãi dầu
Tím tương lai tím mộng đầu
Tím về dĩ vãng tím câu giao tình
Tím qua mấy nẻo trường đình
Bằng lăng tím nước lan rừng tím cây
Mồng tơi mực tím héo gây
Màu sim tím cả trời mây thôn Đoài
Lục bình mấy vạt trôi xuôi
Đò ngang tím bến chim trời cánh xiêu
Tặng anh quãng tím đường chiều
Cho sầu cổ độ về yêu tháng ngày.


Và sau đây, tôi xin trích vài cảm nghĩ của các nhà văn nhận xét về tập thơ ‘Nụ Hôn Loài Lan Tím Dại’ của nhà thơ Thái Thuỵ Vy:
Nhà văn Duy Lam: ‘… Nhà thơ Thái Thuỵ Vy có một tâm sự buồn nên thơ anh làm hầu hết buồn… giòng thơ trữ tình lãng mạn của những thập niên 1930-1940…được nhiều lớp độc giả yêu thơ dành cho những cảm tình và sự đón tiếp thân tình. …có ưu điểm… một số bài một số câu thơ đã rõ ràng là những khai phá mới mẻ, mang đến cho ngôn ngữ thơ những sắc thái độc đáo.’…
Nhà văn Lê Nhật Thăng: ‘… Quả thật Thái Thuỵ Vy đã ít nhiều mang lại vóc dáng mới mẻ, nguồn gốc tràn đầy sinh lực trong từng trang chữ. Tác phẩm đầu tay này là một báo hiệu rực rỡ..’
Giáo sư Bùi Hữu Thư Ph.D:  ‘…Thơ Thái Thuỵ Vy thật là da diết, chắt chiu và nung nấu… Những bài thơ lục bát của anh rất điêu luyện …êm nhẹ, quyến rủ như thơ của Nguyễn Bính trong bài ‘Cô Hàng Xóm’, Huy Cận trong bài ‘Ngậm Ngùi’, Xuân Diệu trong bài ‘ Chiều’. Khái Hưng trong bài ‘Tình Tuyệt Vọng’…
Nhà xuất bản Phù Viên: ‘… Và toàn bộ thi phẩm “ Nụ Hôn Loài Lan Tím Dại” của nhà thơ Thái Thuỵ Vy như những vết nắng đầu ngày rọi xuyên vào khu rừng thu còn sương sớm và lá vàng phủ kín…’

Xuyên qua hai tập thơ nói trên, tôi thấy Thái Thuỵ Vy u ẩn nhiều tâm sự, anh không biết gửi vào đâu cho dịu vợi nỗi buồn, nên anh chắt chiu, rồi đem trút cả vào thơ. Thơ buồn thơ mới hay, khiến ai khi đọc thơ anh cũng bùi ngùi thương cảm :

         ‘Bằng lăng tim tím khóc thầm’
         ‘Si em màu áo tủi hờn hoa sim’

                  ‘Chiều nay có kẻ tình say’
                  ‘Lấy mây băng vết thương tày cổ sơ’

                           ‘Có con linh điểu trọc đầu’
                           ‘Ngày đêm tha đá lấp sầu đại dương’

Chừng sáu câu thơ trên đây thôi, cũng đủ cho tôi ngồi suy tư, uống cạn một bình trà và thả hồn theo khói thuốc… rồi liên tưởng đến một kẻ tình si, đang mang vết thương lòng tím màu năm tháng cũ… nhưng vẫn cố trả nợ dâu, đi góp nhặt từng vần thơ để lấp mạch sầu thiên cổ. Thật đáng cảm phục thay !
                                             Nguyễn Kim Lộc
                                    ( Chicago, ngày 14-05-05)

TIẾNG NƯỚC TÔI

TIẾNG NƯỚC TÔI

Sống trong cảnh xa nhà, nhớ nước, mà nghe bản nhạc Tình Ca của Phạm Duy, với tiếng hát vượt thời gian của Thái Thanh, vẳng lên trong đêm thanh vắng, tôi chắc rằng những người Việt đang lưu lạc tha phương, khó mà ngăn được giây phút chạnh lòng, nhớ thuở xa xưa, nhớ tiếng ru của mẹ, nhớ Tiếng Hát Sông Lô, nhớ câu ca Quan Họ, nhớ tiếng hò mạn ngược, nhớ câu đối miền xuôi, nghe tiếng thời gian trôi dưới vòm trời hưng phế …

                  "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi! Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi ! Tiếng ru muôn đời…"

                  Tôi nghe tim tôi đang dậy lên một niềm tự hào về tiếng nước tôi, sao mà êm đềm quá, lúc nhẹ như gió thoảng mây bay, lúc dặt dìu như con suối chảy, như có hương trong tiếng, như có mật trong lời. Lời và nhạc của Phạm Duy đã hoà quyện vào tiếng hát của Thái Thanh  đưa bài Tình Ca bay bổng đến chín từng mây.
"Tiếng nước tôi! Bốn nghìn năm ròng rã buồn vui. Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi !
Tiếng nước tôi ! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi. Thoát nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!..."

Thật tuyệt vời làm sao!

Tiếng nước tôi có một hấp lực như vậy đó. Cũng căn cứ vào các mẫu tự A, B, C…Y, kèm theo năm dấu Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng, mà nghe sao lúc trầm lúc bổng, khi chơi vơi cao vút, khi lặng lờ chìm nghỉm đáy hồ ao. Tôi hãnh diện về tiếng nước tôi, tiếng nói của người dân Việt đi tìm tự do, vô tình mang theo trên đường vượt thoát làn sóng đỏ và cũng vô tình dàn trải mong manh trên tấm bản đồ thế giới qua hình thức các cộng đồng sắc tộc Việt Nam ti nạn Cộng Sản. Tôi rất mừng tiếng nước tôi được vang xa, tâm tình quê hương tôi được nhiều người hiểu thấu. Nước Việt Nam nhược tiểu bị Tàu đô hộ một ngàn năm và Tây cai trị đến gần một trăm, nhưng tiếng nói của dân tộc Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến vẫn tiềm tàng uyển chuyển theo dòng lịch sử đau thương. Tiếng nước tôi muôn màu muôn vẻ, đang được thế hệ tị nạn thứ nhất ân cần khuyên bảo thế hệ thứ hai giữ gìn và phát huy trong ý hướng "tiếng Việt còn, người Việt còn, người Việt còn nước Việt còn" với niềm hy vọng trong tương lai, nước Việt Nam có tự do dân chủ thực sự và mãi mãi trường tồn.
Ôi tuyệt vời làm sao cho tiếng nước tôi !

"Tôi yêu tiếng ngang trời. Những câu hò hờn giận không nguôi. Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi. Vững tin vào mộng đẹp ngày mai"

Nghe rây rứt làm sao…

Tiếng nước tôi không bằng tiếng Mỹ ở vị thế phổ thông trên thương trường thế giới, không bằng tiếng Pháp được chọn sử dụng trong các văn kiện hiệp ước ngoại giao quốc tế, cũng không bằng tiếng Y-Pha-Nho và tiếng Trung Quốc, có hàng tỷ người đang sử dụng, nhưng tiếng nước tôi có những nét đặc thù linh hoạt, huyền dịệu trong lãnh vực thơ văn, như viên kim cương lấp lánh muôn màu trong kho tàng văn học Việt Nam, mà ít có nước nào có được, có nhiều bài thơ đọc xuôi đọc ngược đều có nghĩa, nhiều ẩn dụ mơ màng, nhiều điệp ngữ dễ thương,… tôi xin đan cử một vài thí dụ để chứng minh màu sắc trong tiếng Việt, như tĩnh từ ĐEN, dịch ra tiếng Mỹ là Black, tiếng Pháp là Noir, tiếng Tàu là Hắc, nhưng chữ ĐEN trong tiếng Việt được sử dụng huyền diệu hơn.
                  Chien noir           Black dog            Hắc cẩu               Chó mực
                  Chat noir             Black cat              Hắc miêu            Mèo mun
                  Coq noir              Black rooster       Hắc kê                Gà quạ
                  Cheval noir          Black horse          Hắc mã               Ngựa ô
                 
Thay vì dùng chữ ĐEN ta lại dùng chữ MỰC, MUN, QUẠ, Ô, để diễn tả một cách riêng tư cho từng loại thú, nghe rất hay, xác định hơn, như đã có trạng từ nằm trong đó, thí dụ Gà Quạ, diễn tả được màu đen, nhưng đen thế nào, thì ta có thể trả lời là đen tuyền, giống màu đen loài quạ, có nghĩa ngoài màu đen, con gà không có điểm thêm một màu nào khác. …hoặc chữ CHẾT dịch ra tiếng Pháp là MOURIR, tiếng Mỹ là TO DIE  hoặc PASS AWAY nhưng trong tiếng Việt được dùng theo tôn ty đặc biệt:
Nhà vua chết dùng chữ ‘băng hà’
Nhà sư chết dùng chữ ‘viên tịch’
Đại phu chết dùng chữ ‘tốt hay thốt’
Tướng chết theo thành dùng chữ ‘tuẩn tiết’
Kẻ sĩ hay người có tuổi từ 70 trở lên thì dùng chữ ‘thất lộc’ hay ‘ qui tiên’
Chiến sĩ chết được dùng chữ hy sinh
Người bình dân chết thường dùng chữ ‘tử’ hoặc ‘qua đời’ hoặc chữ mãn phần, hoặc chữ ‘thác’ (sống khôn thác thiêng)...
Hai thí dụ vừa kể trên cho ta thấy tiếng Việt vô cùng  phong phú.

Và sau đây là những câu tiêu biểu cách dụng ngữ trong văn chương Việt Nam mà khó có nước nào vận dụng được, như chữ ‘Ai’ trong mẫu chuyện người vợ mới cưới mang cơm ra đồng cho chồng, ngượng ngập e lệ gọi: “ Nầy ai ơi lên mà ăn cơm”.Và sau đó, để trả lời câu nói đùa của vợ, chồng hỏi lại: “Ai gọi ai lên ăn cơm đấy?”, người vợ trả lời: “Ai gọi ai lên ăn cơm, chứ còn gọi ai nữa!”(1) Một chữ  ‘Ai’ mà dùng cả ba ngôi không phải tuyệt lắm sao!
Xin mời các bạn đọc thêm vài thí dụ sau đây:
1/. khi tả cảnh hàng liễu bị tuyết phủ trong khoảng đất trời hoang vắng, tác giả dùng "ẩn dụ" rất thần tình…
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang!
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng!”
                                             (Xuân Diệu)

2/. Cách sử dụng điệp ngữ rất tuyệt vời trong bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vẳng chợ chiều
Nắng xuống chiều lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Bèo giạt về đâu hàng nối hàng
Trên sông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Không chút bờ xanh tiếp bãi vàng.
                                   
3/. Hoặc bài thơ của Hồ Xuân Hương tả Bánh Trôi Nước (một thứ bánh làm bằng nhân đậu xanh vo tròn và bột nếp bọc bên ngoài, lớn hơn quả trứng gà, nấu với nước đường gừng và khi ăn, cho vào chén một tí mè rang) tác giả tả rõ ràng như thế mà có người lại cho rằng bà đã tả cặp nhũ hoa của người phụ nữ, rồi từ đó tưởng tượng xa xôi. Thế có chết không chứ ! Tác giả viết rất thanh nhưng có người cứ giảng tục. Ý tôi muốn trình bày một bài thơ có hai ý nghĩa, ai muốn nghĩ thế nào cũng được.
‘Thân em thì trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc lòng tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.’

4/. Hoặc có những bài thơ có từng cặp chữ nói láy rất tài tình như dưới đây
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chú khiêng lên hết chiến khu rồi
Thi đua rồi lại thua đi mãi
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.
                                             ( tác giả ?)

5/. Các bạn xem chữ Quốc sau đây có còn là chữ Hán nữa không ? Hay đã thành tiếng Việt Nam tự lâu rồi. Chữ Quốc là danh từ riêng, anh Quốc. Chữ quốc là danh từ chung có nghĩa là nước….
‘Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời
Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời
Đặt tên cho anh anh là Quốc
Đặt tên cho anh anh là nước
Đặt tên cho người đặt tình yêu nước vào nôi.
Việt Nam đang sôi sôi lòng nước
Việt Nam đang sôi sôi lòng Quốc
Việt Nam đang đòi tự do hạnh phúc giống nòi’( 2)

Sau đây là một số tiếng nước ngoài đã được Việt hoá và được người Việt sử dụng nhuần nhuyễn như chữ xà phòng Ca Dom, chữ ga… đến độ không ai còn tưởng đó là chữ ngoại quốc nữa
‘Những ngày nghỉ học tôi thường tới
Đón chuyến tàu đi đến những ga
Tôi đứng buâng khuâng nghe tiễn biệt
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.(3)
                                            
Người Mỹ, người Pháp, người Trung Hoa hãnh diện về tiếng nước họ, tôi cũng hãnh diện về tiếng nước tôi, tiếng nước tôi rất lung linh huyền diệu như những thí dụ nói trên.
Và sau đây là phần tôi muốn chứng minh những lời tôi vừa trình bày là một sự thật hiển nhiên và nhân dịp nầy tôi xin tỏ lòng biết ơn những người ngoại quốc đã từng nghiên cứu và có những nhận xét vô tư về tiếng nước tôi:
‘-Ông G. Meillon người Pháp cho rằng tiếng Việt là một thứ tiếng vừa văn chương vừa giàu nhạc điệu nhất thế giới’.
‘-Ông Frey một nhà ngữ học người Pháp có lẽ nhận thấy những vận gốc của tiếng Việt đầy đủ quá (chính điều nầy khiến người Việt học bất cứ ngoại ngữ nào cũng rất chóng) nên đã nêu một giả thuyết táo bạo: “Tiếng Việt là mẹ các thứ tiếng”.
-Ông Pazzi người Ý nhận xét: “Ngôn ngữ Việt Nam là ngôn ngữ duy nhất trên thế giới có nhiều giọng điệu cung bậc…
Phải nghe người dân mỗi miền, người Bắc, hay Trung, hay Nam hát những dân ca quen thuộc với tiếng nói thuần tuý và giọng thuần tuý của họ, chúng ta mới thấy ý vị của giọng nói ấy đậm đà đến chừng nào.
Sự phong phú trong âm thanh lại được thay đổi qua nhiều miền đất của quê hương họ…
Nếu phải tô màu các các giọng nói ấy, người ta có thể vẽ một bản đồ Việt Nam thật đẹp. Có miền màu xanh, có miền màu hồng, có miền màu trắng, có miền màu vàng, đấy là chưa nói mức độ đậm lợt khác nhau…”(4)
Tiếng Việt Nam giàu âm thanh, nhiều màu sắc, dễ giúp cho các dịch giả Việt Nam thành công trong phần dịch thuật thơ và nhạc ngoại quốc. Mời các bạn thưởng thức phần dịch thuật các bài thơ dịch sau đây mà tôi cho rằng quá tuyệt vời:

Từ Thuở Chàng Đi
Từ ngày chàng bước chân đi
Cái khung dệt cửi chưa hề nhúng tay
Nhớ chàng như mãnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm.

(Nhà văn Ngô Tất Tố dịch từ bài thơ ‘Tự Quân Chi Xuất Hĩ’ của Trương Cữu Linh :Tự quân chi xuất hĩ- Bất phục lí tàn ki- Tự quân như nguyệt mãn- Dạ dạ giãm thanh huy.)

Xuân Oán
Đuổi dùm hộ thiếp con oanh
Đừng để nó hót trên cành trêu ngươi
Làm tan mộng thiếp đang say
Khiến không được đến Liêu Tây cùng chàng.

(Giáo sư Trần Trọng San dịch bài Xuân Oán của Kim Xương Tự: Đả khởi hoàng oanh nhi- Mạc giao chi thượng đề- Đề thời kinh thiếp mộng- Bất đắc đáo Liêu Tây.)


         Tiễn Biệt Trên Sông Dịch
Nơi đây từ biệt Yên Đan
         Máu hùng dựng tóc căm hờn lòng sôi
         Người xưa chừ đã đi rồi
         Hôm nay dòng nước còn trôi lạnh lùng.

(Giáo sư Trần Trọng San dịch từ bài thơ ‘ Dịch Thuỷ Tống Biệt’ của Lạc Tân Vương, Thử địa biệt Yên Đan,Tráng sĩ phát xung quang,Tích thời nhân dĩ một, Kim nhật thuỷ do hàn.)
         Còn rất nhiều bài thơ, bản nhạc dịch từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung Hoa…,mà các tác giả người Việt dịch rất tài tình, nếu đem đối chiếu, người ta không nghĩ đó là bản văn dịch…, trường hợp Phan Huy Vịnh dịch bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, hoặc Thiếu Lăng Quân dịch nhiều bài thơ tiếng Pháp…Tôi đang có gắng sưu tầm để có một dịp nào đó viết thành bài cống hiến quí đồng hương.

         Và sau đây tôi muốn trình bày thêm cùng các bạn một vài thể thơ rất đặc biệt mà tôi tin chắc có nước nào có được.
Thể thơ Vĩ Tam Thanh
         Tai nghe gà gáy tẻ tè te
         Bóng ác vừa lên hé hẻ hè
Non một chồng cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở loẻ loè loe
Chim, tình bầu bạn kia kìa kỉa,
Ong, nghĩa vua tôi nhe nhẻ nhè,
Danh lợi mặc người ti tí tỉ.
Ngủ trưa chưa dậy khoẻ khoè khoe.
                                    ( Vô Danh)
Thể Song Điệp
         Vất vất, vơ vơ cũng nực cười !
         Căm căm, cúi cúi có hơn ai ?
         Nay còn chị chị, anh anh đó;
         Mai đã ông ông, mụ mụ rồi.
         Có có, không không lo hết kiếp;
         Khôn khôn, dại dại chết xong đời.
         Chi bằng láo láo, lơ lơ vậy,
         Ngủ ngủ, ăn ăn nói chuyện chơi.
                                             (Vô Danh)
Thể thơ Thuận Nghịch Đọc

                  Cảnh Hồ tây
                  (Bài đọc xuôi)
Đây vui thực lạ cảnh Tây Hồ !
Trước tự trời kia khéo vẽ đồ.
Mây vẫn nước xanh màu tõ ngọc ,
Nguyệt lòng hoa thắm vẻ in châu;
Cây la, tán rợp, từng cao thấp;
Sóng gợn cầm tâu dịp nhỏ to
Bày khéo thú vui non nước đủ;
Tây-hồ giá ấy dễ đâu so.

         (Bài đọc ngược)
So đâu dể ấy giá hồ Tây !
Đủ nước non vui thú khoé bày,
To nhỏ dịp tâu cầm gợn sóng,
Thấp cao từng rợp tán la cây.
Châu in vẻ thắm hoa lồng nguyệt.
Ngọc tỏ màu xanh nước lộn mây.
Đồ vẻ khéo kia trời tự trước;
Hồ Tây cảnh lạ thực vui đây.
                           (Vô Danh)
(Bài thứ nhất, bạn đọc xuôi từ chữ thứ nhất câu 1 đến chữ thứ 56 câu tám; bài thứ hai, bạn đọc theo trình tự từ chữ 56 ngược lên chữ số một, hai bài thơ đều có nghĩa hẳn hoi).
 Bạn thử giúp tôi xem có bài thơ ngoại quốc nào viết được như vậy không ?

 Các bạn trẻ Việt Nam đang ở khắp nơi trên thế giới có dịp nghiên cứu ngôn ngữ các nước, hãy nghiệm xem lời tôi trình bày có thái quá không? Có nhiều cái ‘Ta’ trong đó không ? Có phải tại vì đó là tiếng Việt nên được người Việt ca ngợi không ? Hay đó là sự thật hiển nhiên. Trong thời gian qua đã có nhiều người ngoại quốc nghiên cứu tiếng Việt và xác nhận: “Tiếng Việt là một thứ tiếng nhiều màu sắc, giàu âm thanh, nhưng rất đơn giản và dễ học nhất, chữ dài nhất trong chữ Việt là chữ NGHIÊNG, có bảy mẫu tự, kết thành một vần (monosyllable) và chỉ phát ra một âm, trong khi đó tiếng dài nhất trong tiếng Pháp và cũng dài nhất trên thế giới là chữ ANTICONSTITUTIONNELLEMENT(hai mươi lăm mẫu tự) kết thành nhiều vần (polysyllable) phát ra một chuổi dài chín âm, và chữ nầy dịch ra tiếng Việt là đối hiến hay nghịch hiến.
 Tôi không có dịp nghiên cứu về ngôn ngữ học, nên không hiểu biết nhiều về nguồn gốc và sự biến thiên của tiếng Việt qua từng giai đoạn lịch sử, tôi dự định sẽ tìm hiểu thêm vấn đề nầy trong sách của các Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Hoà, Đàm Trung Pháp… Trong phạm vi bài nầy tôi chỉ nêu lên vài sự hiểu biết hạn hẹp của riêng tôi về cái hay, cái đẹp tôi cảm nhận được trong tiếng Việt, trong văn chương Việt Nam mà tôi có dịp học qua nơi trường học hoặc vô tình thu lượm được ở trường đời.
Tôi nghĩ rằng, tiếng nói của bất cứ quốc gia nào cũng hay, cũng đẹp đối với dân tộc đó, vì "Tiếng nói" ngoài việc giữ vai trò quan trọng trong việc truyền đạt ý tưởng cho nhau, còn hoà quyện vào nền văn hoá dân tộc để trở thành tiếng nói thiêng liêng của dân tộc ấy. Ý thức được điều nầy, nên tôi không bao giờ dám nói ‘Tiếng Việt hay tiếng nước tôi là hay nhất, mà tôi chỉ xin trình bày cái may mắn đưa đẩy cho dân tộc Việt Nam có được tiếng nói giàu âm thanh, màu sắc và có nhiều nét đặc thù duyên dáng trong văn thơ như tôi đã có dịp trình bày nơi phần trên.
Tôi yêu tiếng Việt Nam vì tôi là người Việt Nam, tôi hãnh diện về tiếng nói nước tôi. Tôi chân thành ghi ơn các bậc tiền nhân cùng các ân nhân đã dự phần bồi đắp cho tiếng nước Việt có một vị thế như ngày hôm nay…
Viết đến đây, tôi lại nhớ đến chị Ỷ Lan, tác giả quyển "Quê Nhà", tôi có dịp đọc qua cách đây không lâu. Những bài, chị viết về quê hương Việt Nam, rất duyên dáng và chính chị đọc qua làn sóng của đài BBC vào khoảng thập niên 80…Tôi rất quí mến Ỷ Lan. Ỷ Lan tên thật là Penelope Faulkner, người gốc Hồng Mao. Mãi đến giờ phút nầy tôi vẫn chưa hiểu thấu tại vì sao Ỷ Lan lại đam mê học tiếng Việt, tìm hiểu văn hoá Việt Nam, viết văn chương Việt Nam và xin nhận Việt Nam làm quê hương, mặc dù chị chưa một lần bước chân đến đất nước Việt Nam. Bài chị viết về quê hương Việt Nam đọc trên đài BBC nghe rất cảm động, phần đông người Việt cứ tưởng chị là người Việt Nam, vì chị hiểu biết quá nhiều về phong tục tập quán Việt Nam. Những bài chị viết như Lạc Long Quân với Âu Cơ…đã làm nứt lòng hàng triệu người Việt Nam, trong số đó, có thi sĩ Bàng Bá Lân và nữ sĩ Mộng Tuyết, hai thi sĩ tiền bối nầy đã có dịp làm thơ khen ngợi. Chị làm cho người Việt nổi lòng ghen với chị, tại sao chị là người Anh mà chị viết và đọc tiếng Việt đúng quá, hơn hẳn một số người Việt (trong số đó có tôi) còn nói ngọng nghịu tiếng nước mình cái ‘lon’ lại nói cái ‘non’, cái quần lại đọc cái quần(g), chữ ‘về’ lại phát âm thành ‘dề’, chữ ‘rồi’ lại đọc thành ‘gồi’ hoặc những người Việt sanh ra tại Mỹ, lại đọc tiếng Việt lơ lớ không bằng chị, một người Anh chánh gốc và cũng từ dạo ấy, tôi làm một bài thơ thương mến chị, nhưng viết rồi lại để đó, nay có dịp viết về bài Tiếng Nước Tôi, tôi lại cho vào đây để cám ơn chị. Tôi không có địa chỉ của chị để gởi bài thơ nầy đến tặng chị, nhưng tôi tin rằng rồi đây, một ngày nào đó, chị cũng sẽ đọc được thôi, rồi chị sẽ ngạc nhiên và thầm nghĩ rằng có thêm một người thương mến mình lâu rồi mà mình không hay biết.

                           Thương Mến Ỷ Lan

Ỷ Lan! Tôi mến chị, vì chị yêu quê tôi
Chị học tiếng Việt rồi, viết ‘Quê Nhà’. Ôi tuyệt!
Chị nhận non nước Việt làm quê hương của mình
Quí chị một tấm lòng tràn đầy tình nhân ái.

Con tàu ra hồ hải, cứu vớt người vượt biên
Trong ba chiến dịch liền, đứng hàng đầu tranh đấu
Ôi ! Ỷ Lan yêu dấu, thương chị quá chị ơi !
Mỗi lần nhớ quê tôi là lần tôi nhớ chị.

Tiếng nước tôi khó dễ ? Sao chị học như chơi !
Viết như nước vỡ bờ, mạch văn tràn lai láng
Một tâm hồn trong sáng, chị tìm giống Lạc Hồng
Chị viết ‘ Cọp Xuống Hang’, ‘Sài Gòn Trong Tưởng Tượng’.

Chị ơi ! Tôi trịnh trọng đặt tên chị lên ngai
Để có dịp ngày ngày, tôi tâm tình với chị
Một phụ nữ phương Tây, biết thương nòi giống Việt
Biết vận dụng tiếng Việt, làm lợi khí đấu tranh.

Một viên ngọc long lanh toả muôn màu sáng chói
Chị ơi ! Tôi đợi mãi, thầm ước có một ngày
Siết nhẹ đôi bờ vai, cho thoả lòng mong nhớ.
Chị ơi ! Thương mến chị… vì chị yêu quê tôi.

         Viết bài nầy, tôi có ý trình bày với đồng hương Biên Hoà cùng các bạn trẻ người Việt đang định cư rãi rác trên bảy mươi quốc gia trên thế giới, phần nào về cái hay, cái đẹp, cái tuyệt vời trong tiếng Việt mà tôi cảm nhận được với ý mong các bạn cũng có cảm nhận nầy và cố gắng thu thập cái hay cái đẹp của xứ người, từ ý lẫn lời và cho chuyển tải vào nền văn học nước nhà để làm cho kho tàng tiếng Việt ngày thêm phong phú, đồng thời tôi cũng xin nhắc nhở quí ông anh bà chị của tôi nên cho con cháu học thông thạo tiếng Việt để tránh thiệt thòi cho con cháu sau nầy và cũng để tránh cho người đời có dịp cười chê rằng : ‘Người Việt Nam, nói không rành tiếng Việt Nam, như thế mà cứ xưng là trí thức’. Có thể có một vài vị không đồng ý về cách trình bày của tôi vì cho rằng tôi quá đề cao tiếng Việt và nếu có trách… thì tôi cam chịu, chứ tôi không thể nào viết khác với những điều mà lòng tôi cảm nhận một cách vô tư được.Tôi xin kết thúc bài viết nầy bằng bài thơ sau đây:

                  TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI

                 Tôi yêu tiếng nước tôi từ thuở,
Mẹ hiền ru vần điệu cao dao,
Bổng trầm êm dịu làm sao
Những lời mộc mạc những câu thâm tình.
Tôi yêu tiếng quê mình biết mấy !
Phương trời xa tôi vẫn mang theo,
Nhớ từng trang sử câu thơ
Núi xanh sông thắm bên bờ đại dương.
Tiếng nước tôi ngập tràn chiến tích,
Chống ngoại xâm, chống Pháp, chống Tàu
Từ Nam Quan đến Cà Màu
Một lòng vì nước diệt thù giữ quê.
Tiếng nước tôi thắm tươi vần điệu
Từng lời thơ êm dịu làm sao
Khi vui dấu sắc vươn cao
Lúc buồn huyền nặng đệm vào trầm êm.
Tiếng nước tôi sắc, huyền, hỏi, ngã
Nặng và không …diễn tả bổng, trầm.
Tiếng nước tôi tiếng độc âm
Nhưng giàu nhạc tính, ẩn lòng từ bi.
Những khúc vui điểm ghi luyến láy,
Câu ngược xuôi có nghĩa như thường,
Những vần điệp ngữ dễ thương
Những lời ẩn dụ vương hương ý đời.
Tiếng nước tôi tuyệt vời biết mấy
Mỗi chữ đen từ ấy diễn ra
Mèo mun, chó mực, ngựa ô
Thâm trầm ý nghĩa sắc màu lung linh.
Viết đến đây tôi xin dừng lại
Sợ có người chê… quá lời khen
Khi nào bạn có rảnh rang
Bước vào tiếng Việt mà chan ý đời.

                                                                     Nguyễn Kim Lộc
                                                       Chicago, ngày 17-09-05

(1) và(4) trích trong quyễn Người Việt Đáng Yêu của nhà văn Doãn Quốc Sĩ (trang 99…), (2) Trong bài ‘Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc của nhạc sĩ Phạm Duy, (3) thơ của thi sĩ Tế Hanh.