MỘT CHÚT TÂM TÌNH
Vào một buổi sáng đẹp trời, cách nay khoảng hơn một năm,
tôi hân hạnh nhận được một số quà, gồm kinh, sách văn thơ, do các người bạn thân của
tôi, trong nhóm thi văn đoàn Sông Phố (Biên Hoà) sáng tác hoặc biên soạn, gởi tặng.
Những tập sách viết tay, in ronéo trên giấy học trò, rất khiêm nhường, nhưng chứa
chan tình cảm, chuyên chở được nội dung các đề mục: khuyến tu, hiếu hạnh, rèn
luyện thân thể, diễn tả những chuyến hành hương cứu trợ, thăm viếng nhiều danh
lam thắng cảnh, các ngôi chùa cổ kính ở
Việt Nam và việc sưu tầm các phương thuốc hiệu nghiệm từ cỏ cây … phổ biến rộng
rãi trong ý hướng giúp người, độ đời. Thật
là một việc làm có ý nghĩa.
-Chùm Thơ Ơn Nghĩa Sinh Thành của Lê Văn Chắt
-Trở Về Cõi Sáng của Đỗ Công Trường
-Cứu Trợ Và Tham Quan Buôn Mê Thuột của Vệ Hiệp
-Trở Lại Đường Xưa –Nha Trang 2005 của Vệ Hiệp
-Tập Thơ Người Cao Tuổi của Lê Văn Chắt
-Hành Hương Gia Lai của Vệ Hiệp
-Hành Trình Phương Bắc của Vệ Hiệp
-Hành Hương Thập Tự 2004 của anh Lê Văn Chắt
-Ký Sự Lần Đi 2004 của Vệ Hiệp
-Giác Ngộ Đến Giải Thoát của Vệ Hiệp
-Kinh Sám Hối Tam Nghiệp
-……
Tôi cảm thấy vô cùng thích thú, khi đọc các tập thơ văn và
tâm tình của các bạn, nhất là lớp đàn anh đang sống ở quê nhà mà tôi đã từng kính
trọng, mến thương…
Những dòng chữ cứ lướt nghiêng trên trang giấy học trò, nét
bút tuy có hơi ngượng ngập vì tuỗi đời chồng chất, nhưng lời văn vẫn bóng bẩy,
thâm trầm, ý tứ vẫn rạt rào thi vị…
Những tập sách trên cũng cho tôi một số thông tin hữu ích…
Có lúc tôi cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui, khi thấy bạn bè có dịp hành hương
khắp đó đây, thăm viếng nhiều ngôi chùa cổ kính, cùng thưởng ngoạn những danh
lam thắng cảnh của đất nước Việt Nam và mừng cho các bạn tôi đã buông xả nghiệp
đời, dấn thân vào việc từ bi đạo hạnh, tự tìm con đường giải thoát … hoặc có lúc
tôi trầm ngâm suy nghĩ về hai chữ Hiếu Thảo, khi đọc một trích đoạn lá thư của
bác Lê Văn Nhơn(1) gửi anh Lê Văn Chắt năm 2004, tâm sự về ‘ Mùa Vu Lan – Nghĩ Về Mẹ Và Quê Hương’
nơi trang cuối tập ‘Chùm Thơ Ơn Nghĩa
Sinh Thành’ của anh LVC, nói lên tình thương yêu cha mẹ của bác Nhơn, một người
gần chín chục tuổi đời, tóc đã trắng màu sương, vẫn còn trĩu lòng biết ơn công đức
sinh thành của cha mẹ và nặng tình hoài niệm quê hương cùng nhớ thương thân tộc
đang ở Việt Nam…hoặc cũng có lúc tôi dừng lại, ngậm ngùi, khi đọc dòng tin anh
Trần Doãn Chấp cựu chánh lục sự toà Thượng Thẩm Sài gòn ngày xưa, đã từ giã cõi
đời vào năm 2005, ở tuổi 93 và còn để lại cho bè bạn thân thương nhiều bài thơ Đường
giá trị với bút hiệu Kỳ Trung.
Trong nhóm bạn cùng nhau trao dồi việc Đạo và cùng trong
nhóm các nhà thơ tài tử nói trên, tôi nhận ra các bạn sau đây:
-Anh Lê Văn Chắt (2), quản lý rạp hát Biên Hùng ngày xưa,
nay đã gần ‘bát thập’, sức khoẻ còn dồi dào, trí nhớ còn minh mẫn, người gốc xã
Hiệp Hoà, xóm Bình Tự, dáng vẻ hào hoa, tính tình hiền lành, dễ mến, tôi quen
biết anh Hai Chắt rất lâu, nhưng mãi về sau nầy, tình thân thiện mới có dịp tăng
dần, nhờ trung gian anh Ba Bì Văn Nhung, người bạn vong niên của tôi, đã 86 tuổi
đời, gốc người Cù Lao Phố, hiện định cư tại Boston (MA)…, nhớ lần tôi với anh
Ba Nhung, đi viếng đám tang thân phụ anh Hai Chắt khoảng năm 1990, ra về giữa đêm
mưa tầm tã…
-Anh Đỗ Công Trường thứ nam của bác Đỗ Hữu Quờn, một nhân
sĩ Biên Hoà ngày xưa, anh Trường là rể của Bà Sáu Chức, chủ tiệm vàng An Hoà tại
khu chợ Biên Hoà, người bạn thời Tiểu Học của tôi, tính tình điềm đạm, vui vẻ,
anh đã sớm nhận thức lẽ huyền vi trong ánh đạo vàng và ý thức được cuộc đời là
cõi tạm nên đã say sưa nghiên cứu kinh sách và bỏ công sưu tầm những bài thuốc
gia truyền hoặc các phương dược thảo trong ý hướng giúp người nghèo khổ…
-Anh Vệ Hiệp, gốc người Quảng Nam, cựu công chức Ty Điền Địa
Biên Hoà từ năm 1960, chấp nhận Biên Hoà làm quê hương thứ hai, đất lành chim đậu,
lập gia đình tại đây và chọn Xã Hiệp Hoà làm nơi trú quán…
Anh Nguyễn Châu Bửu, cựu viên chức toà Hành Chánh tỉnh Biên
Hoà, từng làm Phó Quận trường Dĩ An, em rể của thầy Phùng văn Bé (một viên chức
kỳ cựu của toà hành chánh tỉnh Biên Hoà hiện định cư tại Úc Châu), nhà ở gần cổng
vào ga xe lửa Biên Hoà, là một người từ tốn và luôn có nụ cười đặc biệt …
Anh Lê Thanh Điển ,p/d Phước Hội, cựu viên chức Ty Kiết
Thiết Biên Hoà ngày xưa…, tuổi đời ngoài tám mươi, hiện ngụ tại khu Vườn Điệp,
gần Ty Công Chánh Biên Hoà, dường như anh đã gác bỏ ngoài tai mọi sự đời, chú tâm
học đạo, anh đã soạn một bộ sách gồm bốn quyển (chép tay, in ronéo )với tựa ‘Nhặt Lá Bồ Đề’ trình bày về những bước căn bản
của Thiền và đã gởi tặng cho 40 người đang tu tập về Pháp môn nầy.
Các bạn nói trên hầu hết đều ở tuổi quá thất thập, tất cả
đều có pháp danh và đang đi trên con đường từ bi hỷ xả…
Lý thú làm sao, ở tuổi về chiều mà còn qui tụ được nhiều
bạn thâm giao, để cùng nhau chia sẻ buồn vui và hướng dẫn nhau đi trên con đường
tìm chân lý giải thoát. Tôi mừng cho các bạn tôi đã trở thành các phật tử thuần
thành, hằng ngày đắm say trong ánh đạo mầu, vui thú trong các chuyến hành hương,
viếng thăm các kiểng chùa khắp nơi trên đất nước Việt Nam, có dịp thả hồn phiêu
bồng theo cảnh trí thiêng liêng huyền nhiệm và làm chuyện phúc đức, tổ chức cứu
trợ những người nghèo trong cơn hoạn nạn, đang gặp thiên tai bão lụt…Nhưng phải
thực sự mà nói, qua số kinh sách nói trên tôi nhận thấy các bạn tôi, mỗi người
có một nét riêng, anh Đỗ Công Trường pháp danh Thiện Đức hăng say tìm đọc nhiều
kinh sách, nghiên cứu, chọn những điều cốt lõi trong kinh pháp, lược giải, cô đọng,
đưa vào quyển ‘ Trở Về Cõi Sáng’ để giúp cho những người không có thì giờ đọc
nhiều kinh sách, đọc qua quyển ‘Trở Về Cõi Sáng’, có thể giúp họ dễ dàng lãnh hội
yếu chỉ của đạo Phật và anh Trường cũng đã chịu khó bỏ ra nhiều thì giờ và công
sức, sưu tập những phương thuốc gia truyền có khả năng chữa lành nhiều căn bịnh,
phổ biến rộng rãi, giúp mọi người tự chữa trị, khi lâm bịnh, nhất là đối với những
người dân ở nông thôn, đang trong hoàn cảnh nghèo khổ, thiếu thầy, thiếu thuốc,
giúp cho mọi người hiểu giá trị của các phương dược thảo, có thể dễ dàng tìm được
trong vườn, hoặc ngoài ngõ. Ngoài ra, anh Đỗ Công Trường còn làm thơ, mặc dù không
chuyên nghiệp, nhưng lời thơ vẫn thắm màu nhân ái và nhiều bài thơ mang sắc thái
đặc thù ở vị trí ba chữ cuối của câu thứ tư của mỗi đoạn thơ thất ngôn, tôi mời
các bạn thưởng thức qua bài thơ dưới đây.
MÂY TRẮNG ĐƯỜNG XƯA
Thôi nhé ! Cuộc đời là thế đấy
Mong manh dường thể hạt sương mai
Có chăng sương trắng miền quê ngoại
Vơi bớt nỗi niềm cay đắng cay.
Mây trắng đường xưa chợt nhớ anh
Nhớ lời anh dặn buổi hôm nay
Giữ lòng ngay thẳng, tâm bình chính
Đạo đức vững bền
tay trong tay.
Bốn chục năm rồi
không làm thơ
Ngày nay anh đã
sáu mươi rồi
Tinh thần khương
kiện, lòng thanh thản
Anh viết về anh lời
đối lời.
Không biết vì
sao tôi làm thơ
Nàng thơ xa lánh
tự bao giờ
Hôm nay trở lại
hồn tôi khuấy
Thôi nhé ! Thôi
rồi, tôi biết tôi.
Biên Hoà, cuối Thu
2004
Thiện Đức Đỗ Công Trường
Anh Lê Văn Chắt,
p/d Thiện Ngôn viết rất nhiều cả văn và thơ, qua tập thơ ‘Chùm Thơ Ơn Nghĩa
Sinh Thành’ , tập thơ ‘Người Cao Tuổi’, ‘Hành Hương Thập Tự’ …cho tôi thấy được
lòng hiếu hạnh của anh đối với song thân của anh và lòng hiếu hạnh của con anh
là cháu Ngọc Quí đang định cư tại Marseille (Pháp) đối với cha mẹ (tức anh chị
Hai Chắt). Trong tập thơ ‘Ơn Nghĩa Sinh Thành’ được coi là một dòng thơ ba thế
hệ, thể hiện nền nếp đạo đức gia đình và truyền thống thương cha quí mẹ của Lê
gia…Mời quí đồng hương đọc các bài thơ tiêu biểu sau đây.
Thế hệ thứ nhất
(cư sĩ Lê Thanh Tân,
thân phụ của anh
Lê Văn Chắt đã qua đời năm 1990)
Khuyến Tu
Ai muốn nương
theo gót Phật Đà
Sầu thành tục sớm
bước chân ra
Dò đường giác ngạn
lần lần tới
Lấp lối mê tình
thoát thoát qua.
Lò gốm tinh thần
kìa sẵn đó
Kho tàng vô tướng
có kia mà
Sụt sè chi nữa lòng
ngơ ngẩn
Chúng Thánh mõi
lòng luống đợi ta.
Lê Văn Tân
Thế hệ thứ hai.
(Thiện Ngôn Lê Văn Chắt)
Giỗ Cha
Ngày giỗ cha – con, tuổi
đã già
Nhìn xem di ảnh nhớ cha ta
Thọ
trên bát tuế - đời như ý
Hạnh
phúc niềm vui đẹp thế gia
Về
cõi non bồng – nơi đất tịnh
Tây
Phương Cực Lạc có đâu xa
Hương
trầm toả khắp – cha về chứng
Chay
tịnh lòng con- Nhớ giỗ cha.
Thiện Ngôn
Mừng
Thọ Mẹ
Tết
đến Quí Mùi Mẹ chín lăm
Chúng
con chúc tho Mẹ trên Trăm
Bình an sức khoẻ
tinh thần kiện
Bách tuế người già tính
tháng năm
Diễm phúc hân hoan vì có
mẹ
Cha thì khuất núi, Mẹ đầu
râm
Chúng con cầu nguyện Như
Lai Phật
Sức khoẻ là vàng, Mẹ vượt
Trăm.
Thiện Ngôn
(2003)
Thế hệ thứ ba
(Ngọc Quí, con gái
của anh Lê Văn Chắt)
Nỗi Nhớ
Nơi xứ lạ gởi về bao nỗi
nhớ
Nỗi nhớ ông bà, nhớ mẹ,
nhớ thương cha
Nỗi nhớ em , nhớ cháu thật
đong đầy
Con bật khóc giữa mùa xuân
bỡ ngỡ…
Nơi xứ xa, mùa Xuân như
yên ngủ
Nhìn chung quanh, ta chỉ có mình ta
Nơi
xứ lạ mọi người như tất bật
Quên
xuân về trên mảnh đất quê xa…
……
Con
vẫn nhớ Mẹ giờ bên bếp lửa
Sửa
soạn cơm canh để đón Ông Bà
Đêm
ba mươi Cha với bàn hương quả
Đón
giao thừa cầu Phúc Lộc Thọ đa.
Nơi
xứ xa Mùa Xuân không hiện hữu
Nhưng trong con
chan chứa nhớ quê nhà
Con sẽ về một mùa xuân nào
đó ?
Trong nụ cười niềm nở của
Mẹ Cha.
…….
Ngọc Quí
(Marseille-1997)
Và sau đây tôi xin giới thiệu anh Vệ
Hiệp pháp danh Thiện Phát, một nhà thơ tài tử (theo lời anh ghi). Anh làm thơ
nhiều thể lọai, nhưng thể Song Thất Lục Bát là thể thơ anh thường sử dụng nhất,
nên bạn bè gán cho anh là chuyên gia về
thể thơ Song Thất Lục Bát. Anh Vệ Hiệp ở
tuổi quá thất thập cổ lai hy, mà trí não vẫn còn tốt. Đi hành hương bất cứ nơi
nào, anh cũng cố gắng nhiếp thu vào trí nhớ những chuyện hay, các cảnh đẹp và
những nét đặc thù của từng địa phương… để khi trở về nhà, anh chuyển lại thành
thơ. Hiện anh có đến năm tập thơ thể song thất lục bát, diễn tả những chuyến hành
hương các tỉnh miền Bắc, các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, các tỉnh miền Trung
và cả vùng rừng núi Cao Nguyên Việt Nam…Tôi xin trích ra đây bài “Vịnh Hạ Long”
trong tập thơ ‘Hành Trình Phương Bắc’, mời các bạn thưởng lãm…
Vịnh Hạ Long
Trên bến cảng, tàu
thuyền nhiều quá
Đậu sát nhau kể
cả số trăm
Mỗi thuyền chỉ
chở hai lăm (25)
Nhổ neo rời bến
tham quan biển trời…
Thuyền ghé qua
nhiều nơi đã định
Chạy vòng quanh
ngắm vịnh Hạ Long
Ghé vào “Đầu Gổ
Thiên Cung”,
Thiên nhiên hùng
vĩ lạ lùng lắm thay !
Trong toàn cảnh
mười hai hang động,
Cấu tạo nên chẳng
giống khuôn nào,
Chỗ thì từ thấp
lên cao,
Như mây lơ lửng
bám vào vách cây,
Tượng thạch nhũ
hiện đầy quanh động
Dấu tích xưa sự
sống còn đây…
Mỗi nơi hình tượng
lạ kỳ,
Bên kia giống Phật
bên nầy đầu voi
Kẻ thuyết minh làu
làu truyền thuyết
Từng thuộc lòng
mẫu chuyện xưa xa
Chỗ nào mình đã đi
qua
Xem hình nhớ lại,
không …là quên luôn.
người thợ ảnh
nhiều phương lắm kế…
Phim tốc hành rửa
sẳn chờ ta
Vòng ra đón tại
bến phà
Thấy mình trong ảnh,
tiền ra ảnh vào.
Vệ Hiệp
(2002)
Viết đến đây, tôi
dừng lại đợi chờ khá lâu mong có được vài ba bài thơ của anh Ba Điển, để ghi vào
đây cho được đầy đủ các bạn trong thi văn đoàn tài tử nói trên và rất may, tôi vừa
được một người bạn thân trao cho mấy bài thơ đượm màu sắc Thiền của anh Ba Điển,
bút hiệu Tô Giang, tôi xin ghi vài đoạn dưới đây.
Hôm nay đầu nhựt
thọ Bát quan
Nhận thấy cửa
Thiền chốn tịnh an
Giúp cho giới tử
lòng thanh thoát
Giấy phút Niết Bàn
tại thế gian.
….
Giới sư hướng dẫn
khoá tọa Thiền
Giới tử ba hàng định
vị yên
Hơi thở ra vào dường
sâu đậm
Quán niệm tâm về
tận cội nguyên.
….
Sau độ trai viên
đến kinh hành
Di Đà miệng niệm
bước vòng quanh
Lục hoà chấm dứt
tâm chế ngự
Giới tử dung thông
dạ tín thành.
….
Một ngày ẩn náo
chốn Thiền môn
Xa hẳn gia đình
lắm bôn chôn.
Tâm linh an trụ
trong thanh tịnh
Nguyện suốt đời
theo Đức Thế Tôn.
(Sơ Nhựt Thọ Bát Quan trai/Phước Hội)
Trên đây là một ít
vần thơ và đôi nét sinh hoạt của nhóm thi văn đoàn nghiệp dư Sông Phố ở quê nhà,
tôi trích ra từ các tập thơ, văn nói trên, gửi đến quí đồng hương thưởng thức với
tấm lòng rộng mở. Những vần thơ không chuyên nghiệp nhưng thể hiện được tấm lòng
chân thành trong ý hướng xây dựng Đời và Đạo. Tôi rất khâm phục và kính trọng các
bạn của tôi nói trên, tuổi đời đã quá thất
thập, nhưng vẫn năng hoạt động và cố gắng giữ gìn sức khoẻ để còn làm được những
điều hữu ích, như tham gia hành hương cứu trợ nhiều nơi, nghiên cứu kinh sách hướng
dẫn được nhiều người tu tập, ăn chay, niệm Phật, làm lành, lánh dử, đồng thời tìm
được phút giây an nhiên tự tại trong ‘Cảnh
ngày xế bóng, cảnh người tàn niên’(3).
Viết đến đây, tôi
cũng xin ghi vài nét về chùa Thanh Long, một ngôi chùa nằm khuất trong xóm ga
xe lửa Biên Hoà, do thượng toạ Thích Huệ Hiền trụ trì, thầy được tín đồ Phật tử
cũng như khách hành hương mô tả là bậc chân tu, quyết nương bóng Phật Đà, cứu
nhân độ thế …. nhất là việc hoá duyên, tổ chức các chuyến hành hương, tạo cơ hội
cho những người có thiện tâm mở lòng từ bi…trợ giúp cho những người đang cơn hoạn
nạn, trong tinh thần lá lành đùm lá rách, hoặc trong tinh thần ‘Dẫu xây chín bậc
phù đồ- Không bằng làm phước giúp cho một người’, mà các người bạn nói trên của
tôi đã tích cực tham gia và hỗ trợ cho chùa.
Và sau đây tôi xin gửi lời cám ơn đến anh Đỗ công
Trường anh Lê Văn Chắt, anh Vệ Hiệp, anh Lê Thanh Điển… đã cho tôi nhiều phút
giây thoải mái khi đọc qua các tập thơ, văn của quí anh. Xin kính chúc các bạn
dồi dào sức khoẻ để an hưởng tuổi già trên hướng đi đã chọn.
Nguyễn Kim Lộc
(Chicago ngày 21-4-07)
Ghi chú: (1) Bác
Lê Văn NHơn có bài viết ‘TẢN MẠN NGÀY XUÂN’ đăng trên Bản Tin số 31 của Hội
AHBH, (2) Anh Lê Văn Chắt có bài thơ ‘MẸ LÀ TẤT CẢ’ với bút hiệu Thiện Ngôn, đăng
Bản Tin số 34/HAHBH, (3) dịch từ tựa bài thơ ‘ Le déclin
du jour et le déclin de la vie’ của nhà văn Pháp Victor Hugo.
Lời thơ của
Thiện Ngôn thẩm nhuần tư tưởng Phật giáo, Khổng giáo và Nho giáo, anh luôn nhấn
mạnh chữ Tâm và lòng Hiếu Hạnh, qua bài Đôi Dòng Tự Sự nơi mấy trang đầu tập
‘Chùm Thơ Ơn Nghĩa Sinh Thành’ anh đã viết hai câu đối dưới đây:
Công cha dưỡng dục dường
non Thái
Nghĩa mẹ sinh thành tựa
biển Đông.
Và anh cũng mượn mấy câu
ca dao nói về công đức của người cha và tầm quan trọng của người cha trong gia đình
Con có cha như
nhà có nóc
Con không cha như
nòng nọc đứt đuôi
Con cha gót đỏ như son
Một mai cha mất gót con lấm bùn
Đạo làm con chớ hững hờ
Phải đem hiếu kỉnh mà thờ từ nghiêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét