Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

TƯỞNG NHỚ VỀ CHA

Tháng vừa qua, nhân Lễ Vinh Danh Mẹ (Mother’s Day) vào ngày Chúa Nhật 9-5-2010, tôi có viết bài Mẹ Tôi, đăng trên Bản Tin Tháng 5 của Hội Ái Hữu Biên Hoà (Houston-Texas). Sau đó, tôi nhận được điện thoại và điện thư  của vài đồng hương và thân hữu, khen bài viết với giọng văn “nghèo mà vui” và khiến cho nhiều người chạnh lòng nhớ về Mẹ.
-Qua điện thoại, nhà văn Hooàng Anh Tài nói: “Đọc bài viết về Mẹ của em, khiến anh nhớ đến mẹ của anh quá! Mẹ của anh qua đời trong lúc anh còn đang bị tù cải tạo ở Sơn La miền Bắc Việt Nam…..”
- Điện thư của nhà thơ Vương Hồng Ngọc viết: “Hôm qua nhận được BTHT Biên Hoà mình, đọc chuyện anh viết mà bùi ngùi.   Cũng hơn 40 năm, HN vẫn còn nhớ hình ảnh Bác. Trong gia đình anh, HN chỉ biết chị Hoà, Hiệp, Mừng.   Bác thiệt giỏi và có tấm lòng, xoay sở làm ăn lo cho một đàn con.  Có được những người con biết thương yêu và thông cảm với mẹ mình, chắc chắn là Bác cũng đã cảm được niềm hạnh phúc khi còn sống.  Ai rồi cũng đi qua con đường Sinh Lão Bệnh Tử.  Bác nằm xuống ở tuổi 83 là đã thọ.  Thương mẹ, nhưng cũng phước cho anh, khóc mẹ ở tuổi bạc đầu.   HN thì khóc mẹ từ thuở lên 7.  Có bất hạnh nào hơn một trẻ thơ mất mẹ.  Một đời thiếu tình thương của mẹ, một đời cứ nghe hụt hẫng.  Thấy những người như HN để biết mình hạnh phúc nha anh”

-Điện thư của nhạc sĩ LMST viết: “Cám ơn bài thơ "Lời Ru Của Mẹ" thật tuyệt vời của TN.
TN được nhiều hạnh phúc trong vòng tay của Mẹ nên còn nhớ lại từng lời ru của Mẹ từ ngày xa xưa nào.
Lmst mất Mẹ lúc chỉ 3 tuổi nên ký ức về Mẹ chỉ qua hình ảnh xưa cũ mà thôi. Tuy nhiên trong thời gian gần 80 năm qua, không đêm nào, trước khi đi ngủ, lmst có thể quên không cầu nguyện cho linh hồn Mẹ”, đồng thời gởi tặng bản nhạc “Lời Ru Của Mẹ” phổ từ thơ TN và tấm hình toàn gia đình chụp năm 1933, gồm song thân và bốn anh chị em của LMST (lúc LMST mới 3 tuổi). Tôi tht sự xúc động khi xem tấm hình và đọc phần ghi chú thâm tình của LMST.

-Và vài người bạn khác đề nghị tôi viết một bài về Cha cho tháng kế tiếp cũng nhân ngày Vinh Danh Cha (Father’s Day) vào ngày Chúa nhật ngày 20-6-2010, cho công bình….vì cha mẹ đều là đấng sinh thành dưỡng dục…nghĩa trọng tình thâm, mà trong dân gian vẫn thường so sánh “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” và  công cha luôn được ví như “núi Thái Sơn” , nhưng đến mùa tưởng nhớ công đức sinh thành, người ta thường nghiêng hướng về mẹ nhiều hơn, mười bài viết về mẹ hoạ hoằn mới có một bài viết về cha…

Tôi ngập ngừng giây phút, vì không biết thời gian cho phép hay không, vả lại viết về cái tôi là một điều tôi vô cùng ái ngại và có thể gây cho nhiều người khó chịu về “Cái tôi đáng ghét”….nhưng sau cùng tôi chấp nhận viết về người cha hiền hậu và đáng kính của tôi với trọn niềm tưởng nhớ…., tuy nhiên tôi cũng trình bày cùng Ông Hội Trưởng Hội AHBH rằng, nếu đã nhận được bài viết về Cha mà không có chữ “tôi” vướng trong đó, thì cứ cho ưu tiên lên khuôn, còn bài viết nầy cho qua một bên vậy.
***   

Trước hết, tôi mở bản nhạc “Tình Cha” của Ngọc Sơn, do chính tác giả trình bày, để hoà lòng tưởng nhớ, khơi gợi nguồn cảm hứng…

“Tình Cha ấm áp như vầng Thái Dương
Ngọt ngào như giòng nước tuôn đầu nguồn
Suốt đời vì con gian nan,
Ân tình đậm sâu bao nhiêu, Cha hỡi Cha già dấu yêu

Và con nhớ mãi những ngày tháng qua
Kỷ niệm năm nào khó phai trong lòng
Nhớ hoài tuổi thơ bên Cha, gian khổ ngày đêm chăm lo
Mong muốn con được lớn khôn
Còn nhớ những ngày ấy, những đêm trường giá lạnh
Và Cha nằm ôm con sưởi ấm những canh dài
Nhè nhẹ hôn con và Cha khẽ nói: Này con yêu ơi...
Con hãy nhớ… hãy nhớ... lời Cha sống cho nên người
và con hãy chớ bao giờ dối gian
Nghèo thì cho sạch rách sao cho thơm!
Những lời của Cha năm xưa
Con nguyện ghi sâu trong tim
Cha hỡi Cha già dấu yêu...”

Lời bản nhạc rất sâu sắc, diễn đạt được tình cha ấm áp, ngọt ngào làm sao, nói lên được sự lo lắng của người cha dành cho con như  thế nào trong quá khứ và nguyện luôn nhớ lời cha dạy  là “ chớ gian dối” và luôn giữ “nghèo cho sạch, rách cho thơm”

Thật sự mà nói, không có người cha nào mà không thương con, nhưng tình thương của người cha lúc nào cũng kín đáo hơn người mẹ, nên người con nào cũng thấy mẹ thương con nhiều hơn cha; người mẹ thường bao dung, nuông chiều hoặc đồng loã, che giấu những lỗi lầm của con, không cho người cha biết để kịp thời sửa chữa, dạy dỗ v à vô tình tạo đứa con hư hỏng, dân gian vẫn có câu “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”.   Người cha nghiêm khắc hơn người mẹ và thương dạy con đôi khi bằng roi vọt, hoặc trách mắng nặng lời, không như người mẹ, lúc nào cũng nhỏ nhẹ, cho con toàn lời âu yếm nuông chìu….Người mẹ thương con và thường lo cho con cái ăn cái mặc, còn người cha thương con, bằng những lời giáo huấn cần thiết nhằm hướng định cho con một tương lai tươi sáng hoặc truyền cho con những bí quyết để thù thắng cuộc đời… Tôi xin phép được viết đôi điều về cha tôi.

          Cha tôi từng là công chức, làm giám thị đề lao Biên Hoà, dưới quyền của ông Tống Đình Đê (Cù Lao Phố-Biên Hoà); một thời làm thơ ký cho Hãng Mễ Cốc Đông Dương tại Sàigòn; từng tham gia Phong Trào Việt Minh chống Pháp, nhưng trở về thành rất sớm…. và từ đó làm đủ thứ nghề, phụ mẹ tôi, nuôi một bè con bảy đứa. Việc làm sau cùng của ba tôi là quản lý rạp chiếu bóng Trần Điển (sau nầy có tên là Vạn Khánh Hưng) nơi góc đường Lý Thường Kiệt và Phan Châu Trinh biên Hoà.
Tôi chỉ nghe kể “Từ ông bà cố đến ông bà nội tôi đều thuộc gia đình giàu có, vào thời điểm thập niên 20, 30, gia đình có tiệm tạp hoá lớn hiệu Phú Bổn, ở Chợ Lớn (Sài Gòn), có lò thuộc da và lò nhuộm ở vùng Quán tre (Gia Định), nhưng ông bà nội tôi qua đời sớm, lúc ba tôi và cô của tôi còn nhỏ;  bà nội tôi trăn trối gởi ba tôi và cô tôi cho người em gái nuôi, cùng ký thác một số lớn tài sản. Ba tôi sống với người dì ruột và được cho ăn học nên người. Đến khi ba tôi trưởng thành, lập gia đình, ra riêng thì phần tài sản chẳng còn; phần tài sản được khẩu trừ vào tiền nuôi ăn học, may sắm quần áo Tết, tiền tiêu, tiền nghệ, tiền ớt, tiền hành, vân vân được ghi chi tiết trong một bảng liệt kê thật dài…. Ông bác tôi biết được việc nầy, bảo ba tôi đi kiện để lấy lại một phần nào tài sản…Ông bác tôi nói “Phải kiện tụng ra toà, phải làm cho ra lẽ….  “cha nó lú chú nó khôn không lẽ một phồn nó daị”   Đứng trước ông Bác của tôi, ba tôi vâng dạ, tỏ ra nghe lời việc đề nghị  kiện tụng để đòi lại phần tài sản của ông Nội tôi để lại, nhưng trong lòng của ba tôi thật sự không muốn hành động như vậy. Ba tôi nói với mẹ tôi rằng:” Dì ruột cũng như mẹ, nếu đưa ra tụng đình thì mình sẽ thắng kiện…. nhưng rồi người dì sẽ buồn rầu mà chết sớm đi thì mình có tội”, nên ba tôi quyết định bỏ qua việc thưa kiện nầy.  Ba mẹ tôi quyết định rời khỏi vùng Xóm Củi (Chợ Lớn), lên Biên Hoà làm ăn sanh sống, coi Biên Hoà là đất lành chim đậu, trong khi ông bác của tôi bảo ba tôi về Cần Thơ ở. Ông bác của tôi tên là Nguyễn Văn Bích, cựu Đốc Phủ Sứ là thân phụ của ông Nguyễn Văn Quí, từng là làm Quận Trưởng Quận Tân Uyên và sau đó làm Chánh Tham Biện (Tỉnh Trưởng) Biên Hoà vào thập niên 40. Ông bác của tôi có rất đông con, phần đông là công chức, có tên như sau : Nguyễn Thị Hường (chủ vựa cá mắm ở Ngã Bảy Phụng Hiệp Cần Thơ), Nguyễn Văn Thơm(thứ ba, làm tại Toà Đô Chánh Sài gòn), Nguyễn văn Quí (thứ Tư, cựu Tỉnh Trưởng Biên Hoà, có bút hiệu là Thân Văn, người sáng lập Ban Khuyến Lệ Cổ Ca), Nguyễn Văn Hiếu (thứ năm, kỷ sư Cầu Cống, vừa từ bên Pháp về Việt Nam, bị Việt Minh bắt tại Trung Lương trên đường từ Sài Gòn về Cần thơ, chung với ông Tạ Thanh Long và dẫn đi mất tích từ năm 1945(?), Nguyễn văn Để (thứ sáu, viên chức Bộ Tài chánh thời VNCH), Nguyễn Văn Tại (thứ bảy, Công chức), Nguyễn văn Cần(thứ tám, Công chức)... Tên đặt thật vần và ý nghĩa: Hường, Thơm, Quí, Hiếu, Để, Tại, Cần, Thơ….Phần ông bà nội tôi chỉ có ba người con, đặt tên theo con giáp (Can chi) Tí (tên của ba tôi Nguyễn Văn Tí, thứ hai), Sửu, Nguyễn Thị Sửu (thứ ba, qua đời lúc còn nhỏ), Dần, (Nguyễn thị Dần thứ tư, sau nầy đổi tên là Hạnh và đôn lên hàng thứ Ba. Cô Ba của tôi hiện nay đã hơn 90 tuổi, sống với con cháu ở Quận 7 Sài Gòn.
Thời thanh niên, ba tôi từng là thủ môn của đội banh Biên Hoà, ba tôi không có kể cho tôi nghe về chuyện nầy, tôi chỉ tình cờ được người chú hàng xóm cho xem tấm hình khổ lớn 24x32, chụp đội banh Biên Hoà, mặc áo đỏ sọc đen, trong hình có trọng tài Ký và trong tài Jean, nhà văn Lương Văn Lựu, ông Trần Minh Miêng(người giữ tấm hình); ba tôi biết đàn tranh (thập lục huyền cầm) học thầy Năm Trù ở Cây Chàm, đàn rành rẽ nhiều bài bản Nam Ai , Kim Tiền Bản, Đảo Ngũ Cung, Ba Nam Sáu Bắc, sáu câu vọng cổ…có chân trong ban nhạc Tỉnh Biên Hoà thời ông Tỉnh trưởng Hậu(?), thổi kèn Bariton, cây kèn to nhất trong ban nhạc, nhiệm vụ giữ trường canh ….nhưng khi đến khoảng bốn mười lăm tuổi, ba tôi bắt đầu ăn chay trường, nghiên cứu kinh sách, bắt đầu tu tại gia và tầm thầy học về Đông Y, tánh dược, phương thang, chẩn mạch, châm cứu vân vân, với mục đích giúp người nghèo khổ…. cho đến khoảng cuối thập niên 70, ba tôi quyết đoạn tuyệt lục dục thất tình, xuất gia cầu Phật. Chìu theo ý của ba tôi, gia đình chúng tôi rất đông con cháu đưa ba tôi đến tại Trung Tâm Tịnh Xá (Gò Vấp),dự lễ Trai Đàn, các vị thượng toạ làm lễ thí phát …. Ba tôi chính thức qui y Tam Bảo, quyết chí tu hành, trường chay đạo hạnh với pháp danh Minh Đạt; trong dịp nầy tôi cũng được Đại Đức Thích Giác Ngộ ban cho pháp danh Minh Thành.
 Sau lễ, chúng tôi ra về, ba tôi ở lại bắt đầu cuộc đời tu hành, trì chay giữ giới, tìm vui trong câu kinh tiếng mõ nơi chốn thiền am…… Sau đó một thời gian, thình lình, gia đình nhận được tin ba tôi ngã bịnh nặng, Trung Tâm Tịnh Xá đề nghị rước ba tôi về nhà chữa trị và tiếp tục tu tại gia…
Tại thành phố Biên Hoà không có chùa hoặc tịnh xá nào mà ba tôi không lui đến để dâng hương lễ Phật cùng thọ giáo những lời vàng ngọc của các sư. Và thường ngày, ba tôi làm hai công việc bố thí, thí tài vài thí pháp. Khi nào ba tôi có chút đỉnh tiền, do con cháu cho, thì ba tôi lại đem cho những người đi xin ăn quanh chợ hoặc mua thức ăn chay cúng dường cho các sư đi khất thực hoá duyên. Ngoài ra ba tôi cũng thường giảng kinh cho những người có ý hướng tu hành, mà ông vẫn thường gọi là thí pháp, nhằm hướng dẫn mọi người ăn chay, niệm Phật, làm lành lánh dữ…Những người dân quanh khu chợ Biên oHoà gọi ba tôi với biệt danh là ông Hai Hát Bóng…. Những người trong xóm thường nói “Không thấy ai hiền như anh Hai Hát Bóng, ăn ở không mếch lòng đến một đứa con nít”.
Tôi học hỏi ở ba tôi rất nhiều, những bài học thực tiễn, quí giá, qua việc làm hằng ngày của ba tôi về tính tình, cách đối nhân xử thế, ý hướng tu học và giúp đời…
Tôi từ giã ba tôi, lên máy bay qua Mỹ theo diện HO vào năm 1991, qua năm sau (1992), ba tôi vĩnh biệt cõi đời, tôi trong hoàn cảnh không về được để thọ tang…. Những hoạt động sinh thời của ba tôi được tôi ghi nhận, và chuyển đạt thành những bài thơ thô thiển sau đây, tôi viết, trong những khi tưởng nhớ nhiều về  người cha hiền lành đáng kính… và tôi xin trình bày nơi đây hôm nay, như một nén hương lòng kính dâng Hiền Phụ.
 



HÌNH ẢNH ÔNG HAI HÁT BÓNG

Già gọi Hai Hát Bóng
Tuổi trẻ kính ông Hai
Người cao, dáng hơi gầy
Mắt sáng nguồn đạo hạnh

Ông Hai cố gắng tu
Biên Hoà ai cũng biết
Đi tìm đường giải thoát
Trong ý hướng độ đời

Một phật tử thuần thành
Bốn mươi năm chay lạt
Với pháp danh Minh Đạt
Người quyết chí tu hành

Tiếng mõ vẫn đều tay
Tiếng chuông ngân ngân dài
Gợi người qui Tam Bảo
Xóm làng vui lắng tai…

Thiền định cả giờ lâu
Bậc thềm dường bốc khói
Bốn bức tường lửa cháy
Gởi hồn về đâu đâu

Một tu sĩ tại gia
Niệm lục tự Di Đà
Giữa hàng kinh vô tự
Vượt thoát đời phong ba

Thực hiện lời nguyện ước
Đã một lần xuất gia
Ngoạ bịnh, thêm tuổi già
Nửa chừng đành bỏ cuộc

Hối tiếc tháng năm qua
Đã không sớm xuất gia
Để đời tu lỡ dịp
Trở về tu tại gia.
                     (Thế Nhân)





HÌNH ẢNH NGƯỜI CHA

                                   Đi tu mục đích giúp đời
                              Cứu người hoạn nạn vớt người trầm luân

 Nhận thức được đời là bể khổ   
Cảnh vô thường nay có mai không
Tử sinh khép một vòng tròn
Lá rơi, bóng nhạn mờ dần nẻo xa

Người vội vã tầm sư học đạo
Viếng nhiều chùa tự tạo cơ duyên
Trầm tư trút cạn nỗi niềm
Muốn xa lánh khỏi ưu phiền trần gian

Tự thách thức gian nan khổ hạnh
Đi tìm thầy kề cận sớm hôm
Kệ kinh thiền định tu thân
Điều tâm, học mạch, phương thang độ đời

Học tánh dược, tạng người thời khí
Học thêm môn châm cứu nhuần tay
Ước mong có được một ngày
Giúp người nghèo khổ, vớt người trầm luân


Trong giấc ngủ mơ màng thi Phật
Sợ trể giờ lật đật đi nhanh
Đến nơi với tấc lòng thành
“Phật xuất địa ngục” đáp nhanh đổ liền


Một đêm khác êm đềm trong giấc
Mơ màng cùng các vị cao tăng
Đi về dự Hội Linh Sơn
Đồi hoa chim hót chập chờn khói mây

Tuổi tác cao ngày càng vội vã
Nghĩ không còn thông thả được đâu
Đời như đèn sắp cạn dầu
Đôi bờ sinh tử chiếc cầu hiện ra

Người nhất quyết xuất gia đầu Phật
Chốn thiền am chẳng được bao lâu
Tuổi già ngả bệnh cơ cầu
Trở về gia thất niệm câu Di Đà

Khi tịnh dưỡng không xa niệm chú
Vẫn trường chay quyết chí tu thân
Đến ngày nhắm mắt xuôi chân
Hàng ngàn kinh pháp hồng trần tiễn đưa

Nắm hài cốt chỉ vừa chiếc hủ
Sau trăm ngày ấp ủ kệ kinh
Đẹp trời… một buổi bình minh
Sông Đồng nước cuốn ảnh hình tan đi.
                                         (Thế Nhân)


LỜI CHA DẠY

Dạy con nhỏ nhẹ với đời
Tránh cho khẩu nghiệp cấp thời dấy lên
Phiền lòng cô bác đôi bên
Kẻ hờn người dỗi chẳng nên chút nào
Nói năng thêm chút mật vào
Cho trơn thanh quản ngọt ngào người nghe
Dù cho việc khó trăm bề
Cũng đừng phóng hoả đốt bè trí khôn
Người tu phải giữ hanh thông
Những lời ác độc phải nên bỏ ngoài
Nói năng càng chậm càng hay
Tránh cho ý nghiệp lăn quay xổ càng
Một lời vội vã nói nhanh
Bốn con ngựa chiến không phăng kịp thời
Nói ra ân hận đã rồi
Lời qua cửa miệng thu hồi được đâu
Tâm viên ý mã cơ cầu
Lòng xôn xao động, ý lao vút vời
Dặn con nên phải giữ lời
Đừng cho ý mã phóng rồi lại ngăn
Lại còn phải giữ nghiệp thân,
Sát sanh trộm đạo tà dâm phải chừa
Cũng đừng uống rượu nói bừa
Vướng vào giới luật nhà chùa đã răn
Dặn con cố diệt tam bành
Tham sân si vốn ghi lòng đừng quên
Giữ gìn từng bước lục căn
Tránh cho duyên khởi lục trần dấy lên
Thế là diệt ý, khẩu, thân
Tam bành lục tặc con nên giữ gìn
Lời cha dạy… nhớ ân cần
Mỗi ngày ba cữ dặn lòng đừng quên.
                                         (Thế Nhân)                 

Ở trên đời nầy, hẳn ai ai cũng có một người cha để thương yêu khi cha còn sanh tiền và để tưởng nhớ khi người cha đã quá vãng. Mỗi người có một niềm hãnh diện riêng, không ai giống ai, về người cha của mình, nhưng nén hương lòng tưởng niệm gần như mang ý nghĩa giống nhau.
                                                                             Nguyễn Kim Lộc
                                                                                   (Chicago, ngày 9-5-2010)



  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét