Tháng vừa qua,
nhân Lễ Vinh Danh Mẹ (Mother’s Day) vào ngày Chúa Nhật 9-5-2010, tôi có viết
bài Mẹ Tôi, đăng trên Bản Tin Tháng 5 của Hội Ái Hữu Biên Hoà (Houston-Texas).
Sau đó, tôi nhận được điện thoại và điện thư
của vài đồng hương và thân hữu, khen bài viết với giọng văn “nghèo mà
vui” và khiến cho nhiều người chạnh lòng nhớ về Mẹ.
-Qua điện thoại,
nhà văn Hooàng Anh Tài nói: “Đọc
bài viết về Mẹ của em, khiến anh nhớ đến mẹ của anh quá! Mẹ của anh qua đời
trong lúc anh còn đang bị tù cải tạo ở Sơn La miền Bắc Việt Nam…..”
- Điện thư của
nhà thơ Vương Hồng Ngọc viết: “Hôm qua
nhận được BTHT Biên Hoà mình, đọc chuyện anh viết mà bùi ngùi. Cũng
hơn 40 năm, HN vẫn còn nhớ hình ảnh Bác. Trong gia đình anh, HN chỉ biết
chị Hoà, Hiệp, Mừng. Bác thiệt giỏi và có tấm lòng, xoay sở làm ăn
lo cho một đàn con. Có được những người con biết thương yêu và thông cảm
với mẹ mình, chắc chắn là Bác cũng đã cảm được niềm hạnh phúc khi còn
sống. Ai rồi cũng đi qua con đường Sinh Lão Bệnh Tử. Bác nằm xuống
ở tuổi 83 là đã thọ. Thương mẹ, nhưng cũng phước cho anh, khóc mẹ ở tuổi
bạc đầu. HN thì khóc mẹ từ thuở lên 7. Có bất hạnh nào hơn
một trẻ thơ mất mẹ. Một đời thiếu tình thương của mẹ, một đời cứ nghe hụt
hẫng. Thấy những người như HN để biết mình hạnh phúc nha anh”
-Điện
thư của nhạc sĩ LMST viết: “Cám ơn bài thơ "Lời
Ru Của Mẹ" thật tuyệt vời của TN.
TN được nhiều hạnh phúc trong vòng tay của Mẹ nên
còn nhớ lại từng lời ru của Mẹ từ ngày xa xưa nào.
Lmst mất Mẹ lúc chỉ 3 tuổi nên ký ức về Mẹ chỉ
qua hình ảnh xưa cũ mà thôi. Tuy nhiên trong thời gian gần 80 năm qua, không đêm
nào, trước khi đi ngủ, lmst có thể quên không cầu nguyện cho linh hồn Mẹ”, đồng
thời gởi tặng bản nhạc “Lời Ru Của Mẹ” phổ từ thơ TN và tấm hình toàn gia đình
chụp năm 1933, gồm song thân và bốn anh chị em của LMST (lúc LMST mới 3 tuổi). Tôi thật sự xúc động khi xem tấm hình và đọc phần ghi chú thâm tình của LMST.
-Và vài người bạn
khác đề nghị tôi viết một bài về Cha cho tháng kế tiếp cũng nhân ngày Vinh Danh
Cha (Father’s Day) vào ngày Chúa nhật ngày 20-6-2010, cho công bình….vì cha mẹ
đều là đấng sinh thành dưỡng dục…nghĩa trọng tình thâm, mà trong dân gian vẫn
thường so sánh “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” và công cha luôn được ví như “núi Thái Sơn” ,
nhưng đến mùa tưởng nhớ công đức sinh thành, người ta thường nghiêng hướng về mẹ
nhiều hơn, mười bài viết về mẹ hoạ hoằn mới có một bài viết về cha…
Tôi ngập ngừng
giây phút, vì không biết thời gian cho phép hay không, vả lại viết về cái tôi là
một điều tôi vô cùng ái ngại và có thể gây cho nhiều người khó chịu về “Cái tôi
đáng ghét”….nhưng sau cùng tôi chấp nhận viết về người cha hiền hậu và đáng
kính của tôi với trọn niềm tưởng nhớ…., tuy nhiên tôi cũng trình bày cùng Ông Hội
Trưởng Hội AHBH rằng, nếu đã nhận được bài viết về Cha mà không có chữ “tôi” vướng
trong đó, thì cứ cho ưu tiên lên khuôn, còn bài viết nầy cho qua một bên vậy.
***
Trước hết, tôi mở
bản nhạc “Tình Cha” của Ngọc Sơn, do chính tác giả trình bày, để hoà lòng tưởng
nhớ, khơi gợi nguồn cảm hứng…
“Tình Cha ấm áp như vầng Thái Dương
Ngọt ngào như giòng nước tuôn đầu nguồn
Suốt đời vì con gian nan,
Ân tình đậm sâu bao nhiêu, Cha hỡi Cha già dấu yêu
…
Và con nhớ mãi những ngày tháng qua
Kỷ niệm năm nào khó phai trong lòng
Nhớ hoài tuổi thơ bên Cha, gian khổ ngày đêm chăm lo
Mong muốn con được lớn khôn
Còn nhớ những ngày ấy, những đêm trường giá lạnh
Và Cha nằm ôm con sưởi ấm những canh dài
Nhè nhẹ hôn con và Cha khẽ nói: Này con yêu ơi...
Con hãy nhớ… hãy nhớ... lời Cha sống cho nên người
và con hãy chớ bao giờ dối gian
Nghèo thì cho sạch rách sao cho thơm!
Những lời của Cha năm xưa
Con nguyện ghi sâu trong tim
Cha hỡi Cha già dấu yêu...”
Lời bản nhạc rất sâu sắc, diễn đạt được
tình cha ấm áp, ngọt ngào làm sao, nói lên được sự lo lắng của người cha dành
cho con như thế nào trong quá khứ và nguyện luôn nhớ lời cha dạy là “ chớ gian dối” và luôn giữ “nghèo cho sạch,
rách cho thơm”
Thật sự mà nói,
không có người cha nào mà không thương con, nhưng tình thương của người cha lúc
nào cũng kín đáo hơn người mẹ, nên người con nào cũng thấy mẹ thương con nhiều
hơn cha; người mẹ thường bao dung, nuông chiều hoặc đồng loã,
che giấu
những lỗi lầm của con, không cho người cha biết để kịp thời sửa chữa, dạy dỗ
v à
vô tình tạo đứa con hư hỏng, dân gian vẫn có câu “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Người cha nghiêm khắc hơn người mẹ và thương
dạy con đôi khi bằng roi vọt, hoặc trách mắng nặng lời, không như người mẹ, lúc
nào cũng nhỏ nhẹ, cho con toàn lời âu yếm nuông chìu….Người mẹ thương con và
thường lo cho con cái ăn cái mặc, còn người cha thương con, bằng những lời giáo
huấn cần thiết nhằm hướng định cho con một tương lai tươi sáng hoặc truyền cho
con những bí quyết để thù thắng cuộc đời… Tôi xin phép được viết đôi điều về
cha tôi.
Cha
tôi từng là công chức, làm giám thị đề lao Biên Hoà, dưới quyền của ông Tống Đình
Đê (Cù Lao Phố-Biên Hoà); một thời làm thơ ký cho Hãng Mễ Cốc Đông Dương tại Sàigòn;
từng tham gia Phong Trào Việt Minh chống Pháp, nhưng trở về thành rất sớm…. và
từ đó làm đủ thứ nghề, phụ mẹ tôi, nuôi một bè con bảy đứa. Việc làm sau cùng của
ba tôi là quản lý rạp chiếu bóng Trần Điển (sau nầy có tên là Vạn Khánh Hưng) nơi
góc đường Lý Thường Kiệt và Phan Châu Trinh biên Hoà.
Tôi chỉ nghe kể “Từ ông bà cố đến ông bà nội tôi
đều thuộc gia đình giàu có, vào thời điểm thập niên 20, 30, gia đình có tiệm tạp
hoá lớn hiệu Phú Bổn, ở Chợ Lớn (Sài Gòn), có lò thuộc da và lò nhuộm ở vùng Quán
tre (Gia Định), nhưng ông bà nội tôi qua đời sớm, lúc ba tôi và cô của tôi còn
nhỏ; bà nội tôi trăn trối gởi ba tôi và
cô tôi cho người em gái nuôi, cùng ký thác một số lớn tài sản. Ba tôi sống với
người dì ruột và được cho ăn học nên người. Đến khi ba tôi trưởng thành, lập
gia đình, ra riêng thì phần tài sản chẳng còn; phần tài sản được khẩu trừ vào
tiền nuôi ăn học, may sắm quần áo Tết, tiền tiêu, tiền nghệ, tiền ớt, tiền hành,
vân vân được ghi chi tiết trong một bảng liệt kê thật dài…. Ông bác tôi biết được
việc nầy, bảo ba tôi đi kiện để lấy lại một phần nào tài sản…Ông bác tôi nói “Phải
kiện tụng ra toà, phải làm cho ra lẽ….
“cha nó lú chú nó khôn không lẽ một phồn nó daị” Đứng trước ông Bác của tôi, ba tôi vâng dạ,
tỏ ra nghe lời việc đề nghị kiện tụng để
đòi lại phần tài sản của ông Nội tôi để lại, nhưng trong lòng của ba tôi thật sự
không muốn hành động như vậy. Ba tôi nói với mẹ tôi rằng:” Dì ruột cũng như mẹ,
nếu đưa ra tụng đình thì mình sẽ thắng kiện…. nhưng rồi người dì sẽ buồn rầu mà
chết sớm đi thì mình có tội”, nên ba tôi quyết định bỏ qua việc thưa kiện nầy. Ba mẹ tôi quyết định rời khỏi vùng Xóm Củi (Chợ
Lớn), lên Biên Hoà làm ăn sanh sống, coi Biên Hoà là đất lành chim đậu, trong
khi ông bác của tôi bảo ba tôi về Cần Thơ ở. Ông bác của tôi tên là Nguyễn Văn
Bích, cựu Đốc Phủ Sứ là thân phụ của ông Nguyễn Văn Quí, từng là làm Quận Trưởng
Quận Tân Uyên và sau đó làm Chánh Tham Biện (Tỉnh Trưởng) Biên Hoà vào thập niên 40. Ông bác của tôi có rất đông
con, phần đông là công chức, có tên như sau : Nguyễn Thị Hường (chủ vựa cá mắm ở Ngã Bảy Phụng Hiệp Cần Thơ), Nguyễn Văn Thơm(thứ ba, làm tại Toà Đô Chánh Sài gòn),
Nguyễn văn Quí (thứ Tư, cựu Tỉnh Trưởng
Biên Hoà, có bút hiệu là Thân Văn, người sáng lập Ban Khuyến Lệ Cổ Ca), Nguyễn
Văn Hiếu (thứ năm, kỷ sư Cầu Cống, vừa từ bên Pháp về Việt Nam, bị Việt Minh bắt tại Trung Lương trên đường từ
Sài Gòn về Cần thơ, chung với ông Tạ Thanh Long và dẫn đi mất tích từ năm
1945(?), Nguyễn văn Để (thứ sáu, viên
chức Bộ Tài chánh thời VNCH), Nguyễn Văn Tại (thứ bảy, Công chức), Nguyễn văn Cần(thứ
tám, Công chức)... Tên đặt thật vần và ý nghĩa: Hường, Thơm, Quí, Hiếu, Để, Tại,
Cần, Thơ….Phần ông bà nội tôi chỉ có ba người con, đặt tên theo con giáp (Can
chi) Tí (tên của ba tôi Nguyễn Văn Tí, thứ hai), Sửu, Nguyễn Thị Sửu (thứ ba,
qua đời lúc còn nhỏ), Dần, (Nguyễn thị Dần thứ tư, sau nầy đổi tên là Hạnh và đôn
lên hàng thứ Ba. Cô Ba của tôi hiện nay đã hơn 90 tuổi, sống với con cháu ở Quận
7 Sài Gòn.
Thời thanh niên, ba tôi từng là thủ môn
của đội banh Biên Hoà, ba tôi không có kể cho tôi nghe về chuyện nầy, tôi chỉ
tình cờ được người chú hàng xóm cho xem tấm hình khổ lớn 24x32, chụp đội banh
Biên Hoà, mặc áo đỏ sọc đen, trong hình có trọng tài Ký và trong tài Jean, nhà
văn Lương Văn Lựu, ông Trần Minh Miêng(người giữ tấm hình); ba tôi biết đàn
tranh (thập lục huyền cầm) học thầy Năm Trù ở Cây Chàm, đàn rành rẽ nhiều bài bản
Nam Ai , Kim Tiền Bản, Đảo Ngũ Cung, Ba Nam Sáu Bắc, sáu câu vọng cổ…có chân trong
ban nhạc Tỉnh Biên Hoà thời ông Tỉnh trưởng Hậu(?), thổi kèn Bariton, cây kèn to
nhất trong ban nhạc, nhiệm vụ giữ trường canh ….nhưng khi đến khoảng bốn mười lăm
tuổi, ba tôi bắt đầu ăn chay trường, nghiên cứu kinh sách, bắt đầu tu tại gia và
tầm thầy học về Đông Y, tánh dược, phương thang, chẩn mạch, châm cứu vân vân, với
mục đích giúp người nghèo khổ…. cho đến khoảng cuối thập niên 70, ba tôi quyết đoạn
tuyệt lục dục thất tình, xuất gia cầu Phật. Chìu theo ý của ba tôi, gia đình chúng
tôi rất đông con cháu đưa ba tôi đến tại Trung Tâm Tịnh Xá (Gò Vấp),dự lễ Trai Đàn,
các vị thượng toạ làm lễ thí phát …. Ba tôi chính thức qui y Tam Bảo, quyết chí
tu hành, trường chay đạo hạnh với pháp danh Minh Đạt; trong dịp nầy tôi cũng được
Đại Đức Thích Giác Ngộ ban cho pháp danh Minh Thành.
Sau
lễ, chúng tôi ra về, ba tôi ở lại bắt đầu cuộc đời tu hành, trì chay giữ giới,
tìm vui trong câu kinh tiếng mõ nơi chốn thiền am…… Sau đó một thời gian, thình
lình, gia đình nhận được tin ba tôi ngã bịnh nặng, Trung Tâm Tịnh Xá đề nghị rước
ba tôi về nhà chữa trị và tiếp tục tu tại gia…
Tại thành phố Biên Hoà không có chùa hoặc
tịnh xá nào mà ba tôi không lui đến để dâng hương lễ Phật cùng thọ giáo những lời
vàng ngọc của các sư. Và thường ngày, ba tôi làm hai công việc bố thí, thí tài
vài thí pháp. Khi nào ba tôi có chút đỉnh tiền, do con cháu cho, thì ba tôi lại
đem cho những người đi xin ăn quanh chợ hoặc mua thức ăn chay cúng dường cho các
sư đi khất thực hoá duyên. Ngoài ra ba tôi cũng thường giảng kinh cho những người
có ý hướng tu hành, mà ông vẫn thường gọi là thí pháp, nhằm hướng dẫn mọi người
ăn chay, niệm Phật, làm lành lánh dữ…Những người dân quanh khu chợ Biên oHoà gọi ba tôi với biệt danh là ông Hai
Hát Bóng…. Những người trong xóm thường nói “Không thấy ai hiền như anh Hai Hát
Bóng, ăn ở không mếch lòng đến một đứa con nít”.
Tôi học hỏi ở ba tôi rất nhiều, những bài
học thực tiễn, quí giá, qua việc làm hằng ngày của ba tôi về tính tình, cách đối
nhân xử thế, ý hướng tu học và giúp đời…
Tôi từ giã ba tôi, lên máy bay qua Mỹ
theo diện HO vào năm 1991, qua năm sau (1992), ba tôi vĩnh biệt cõi đời, tôi
trong hoàn cảnh không về được để thọ tang…. Những hoạt động sinh thời của ba
tôi được tôi ghi nhận, và chuyển đạt thành những bài thơ thô thiển sau đây, tôi
viết, trong những khi tưởng nhớ nhiều về người cha hiền lành đáng kính… và tôi xin trình
bày nơi đây hôm nay, như một nén hương lòng kính dâng Hiền Phụ.
HÌNH ẢNH ÔNG HAI
HÁT BÓNG
Già gọi Hai Hát
Bóng
Tuổi trẻ kính
ông Hai
Người cao, dáng
hơi gầy
Mắt sáng nguồn đạo
hạnh
Ông Hai cố gắng
tu
Biên Hoà ai cũng
biết
Đi tìm đường giải
thoát
Trong ý hướng độ
đời
Một phật tử thuần
thành
Bốn mươi năm
chay lạt
Với pháp danh
Minh Đạt
Người quyết chí
tu hành
Tiếng mõ vẫn đều
tay
Tiếng chuông
ngân ngân dài
Gợi người qui Tam
Bảo
Xóm làng vui lắng
tai…
Thiền định cả giờ
lâu
Bậc thềm dường bốc
khói
Bốn bức tường lửa
cháy
Gởi hồn về đâu
đâu
Một tu sĩ tại
gia
Niệm lục tự Di
Đà
Giữa hàng kinh
vô tự
Vượt thoát đời
phong ba
Thực hiện lời
nguyện ước
Đã một lần xuất
gia
Ngoạ bịnh, thêm
tuổi già
Nửa chừng đành bỏ
cuộc
Hối tiếc tháng
năm qua
Đã không sớm xuất
gia
Để đời tu lỡ dịp
Trở về tu tại
gia.
(Thế Nhân)
HÌNH ẢNH NGƯỜI
CHA
Đi tu mục đích
giúp đời
Cứu
người hoạn nạn vớt người trầm luân
Nhận thức được đời
là bể khổ
Cảnh vô thường nay có mai không
Tử sinh khép một vòng tròn
Lá rơi, bóng nhạn mờ dần nẻo xa
Người vội vã tầm sư học đạo
Viếng nhiều chùa tự tạo cơ duyên
Trầm tư trút cạn nỗi niềm
Muốn xa lánh khỏi ưu phiền trần gian
Tự thách thức gian nan khổ hạnh
Đi tìm thầy kề cận sớm hôm
Kệ kinh thiền định tu thân
Điều tâm, học mạch, phương thang độ
đời
Học tánh dược, tạng người thời khí
Học thêm môn châm cứu nhuần tay
Ước mong có được một ngày
Giúp người nghèo khổ, vớt người trầm
luân
Trong giấc ngủ mơ màng thi Phật
Sợ trể giờ lật đật đi nhanh
Đến nơi với tấc lòng thành
“Phật xuất địa ngục” đáp nhanh đổ liền
Một đêm khác êm đềm trong giấc
Mơ màng cùng các vị cao tăng
Đi về dự Hội Linh Sơn
Đồi hoa chim hót chập chờn khói mây
Tuổi tác cao
ngày càng vội vã
Nghĩ không còn
thông thả được đâu
Đời như đèn sắp
cạn dầu
Đôi bờ sinh tử
chiếc cầu hiện ra
Người nhất quyết
xuất gia đầu Phật
Chốn thiền am chẳng
được bao lâu
Tuổi già ngả bệnh
cơ cầu
Trở về gia thất
niệm câu Di Đà
Khi tịnh dưỡng
không xa niệm chú
Vẫn trường chay
quyết chí tu thân
Đến ngày nhắm mắt
xuôi chân
Hàng ngàn kinh
pháp hồng trần tiễn đưa
Nắm hài cốt chỉ
vừa chiếc hủ
Sau trăm ngày ấp
ủ kệ kinh
Đẹp trời… một buổi
bình minh
Sông Đồng nước
cuốn ảnh hình tan đi.
(Thế Nhân)
LỜI CHA DẠY
Dạy con nhỏ nhẹ
với đời
Tránh cho khẩu
nghiệp cấp thời dấy lên
Phiền lòng cô
bác đôi bên
Kẻ hờn người dỗi
chẳng nên chút nào
Nói năng thêm
chút mật vào
Cho trơn thanh
quản ngọt ngào người nghe
Dù cho việc khó
trăm bề
Cũng đừng phóng
hoả đốt bè trí khôn
Người tu phải giữ
hanh thông
Những lời ác độc
phải nên bỏ ngoài
Nói năng càng chậm
càng hay
Tránh cho ý nghiệp
lăn quay xổ càng
Một lời vội vã nói
nhanh
Bốn con ngựa chiến
không phăng kịp thời
Nói ra ân hận đã
rồi
Lời qua cửa miệng
thu hồi được đâu
Tâm viên ý mã cơ
cầu
Lòng xôn xao động,
ý lao vút vời
Dặn con nên phải
giữ lời
Đừng cho ý mã
phóng rồi lại ngăn
Lại còn phải giữ
nghiệp thân,
Sát sanh trộm đạo
tà dâm phải chừa
Cũng đừng uống
rượu nói bừa
Vướng vào giới
luật nhà chùa đã răn
Dặn con cố diệt
tam bành
Tham sân si vốn
ghi lòng đừng quên
Giữ gìn từng bước
lục căn
Tránh cho duyên
khởi lục trần dấy lên
Thế là diệt ý,
khẩu, thân
Tam bành lục tặc
con nên giữ gìn
Lời cha dạy… nhớ
ân cần
Mỗi ngày ba cữ dặn
lòng đừng quên.
(Thế Nhân)
Ở trên đời nầy, hẳn
ai ai cũng có một người cha để thương yêu khi cha còn sanh tiền và để tưởng nhớ
khi người cha đã quá vãng. Mỗi người có một niềm hãnh diện riêng, không ai giống
ai, về người cha của mình, nhưng nén hương lòng tưởng niệm gần như mang ý nghĩa
giống nhau.
Nguyễn Kim Lộc
(Chicago, ngày 9-5-2010)