Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

XUÂN VỀ TẾT ĐẾN ÔNG ĐỒ MÚA MAY

                                    Tưởng ông đồ biệt ngàn năm
                                    Nào ngờ… khi gió chớm xuân lại về
Nghiên son - phố thị - vỉa hè
Bút lông lại múa những lời vàng son.
                                    Thế nhân

Hằng năm, cứ vào khoảng rằm tháng Chạp Âm Lịch, người ta thường ghi nhận bầu không khí chuẩn bị cho những ngày Tết Việt Nam bắt đầu rộn rịp. Hầu như mọi người đều ý thức ngày truyền thống văn hoá nầy, ngày cả nhà đoàn tụ, hoan hỷ đón mừng xuân mới trong sự quan tâm đùm bọc lẫn nhau và nhớ về cội nguồn, nên mọi người đều vui vẻ lo phần việc của mình, phái nam lo dọn dẹp sạch sẽ trong nhà ngoài ngõ, quét vôi tường, sơn cửa, đánh bóng lư đồng, trưng bày bàn thờ  tổ tiên, tìm mua một cành mai hay một cành đào… còn phái nữ  thì lo việc bếp núc chuẩn bị các thức ăn để cúng gia tiên, cửu huyền thất tổ và bày tiệc mừng Xuân…. Tết là ngày lễ lớn nhất trong năm, mang ý nghĩa truyền thống văn hoá đặc thù của dân tộc Việt Nam.
Báo chí điện tử trong nước mô tả sinh hoạt chợ Tết tăng dần từng ngày, các gian hàng quần áo, trái cây đủ loại…đến ngày 23 Âm Lịch đã có nhiều gian hàng bán bánh mứt đủ loại thèo lèo cứt chuột; hàng vàng mã, giấy tiền vàng bạc, cờ bay ngựa chạy, được bày bán để  phục vụ cho ngày tiễn đưa Ông Táo về Trời, trình tấu Ngọc Hoàng mọi việc vui buồn, ấm lạnh ở trần gian… kế đến là một chuỗi ngày Giỗ Tổ tuỳ theo ngành nghề mà tổ chức vào những ngày khác nhau trong những ngày cuối năm. Nhiều gian hàng trái cây đủ loại, bưởi, cam, quít, ổi, mãng cầu…, chợ dưa hấu, chợ bánh mứt bắt đầu được dựng lên và sau cùng là các chợ kiểng hoa.
Chợ búa càng lúc càng náo nhiệt, người đi mua sắm đồ Tết càng lúc càng đông, nhất là ba ngày cuối năm, có chợ đêm… khoảng thời gian nầy, các ông đồ lại có dịp xuất hiện, ngồi trên các vỉa hè, viết chữ, bán hoa tay, nét bút…
Còn ở đây, thành phố Chicago nổi tiếng là “Thành Phố Gió”, nơi gia đình tôi đến định cư trên mười lăm năm, vẫn một vẻ im lìm, vẫn như mọi ngày, không có một nét gì khơi gợi cảnh Xuân và Tết, ngoại trừ một số ít cửa hàng Á Đông tại khu chợ Argyle, có bày bán các mặt hàng dành cho người Việt và người Hoa, mua về sử dụng trong ba ngày Tết; một số tập san Ngày Mới, Hôm Nay, Chicago Việt Báo, Diễn Đàn Chiacago, Người Việt Illinois… trình bày những bức tranh dân gian và những bài viết liên quan đến Xuân và Tết Việt Nam, cùng kèm theo những lời Chúc Mừng Năm Mới của các nhà doanh thương và một số thông báo họp mặt của các hội đoàn về  tiệc “Tất Niên” hoặc “Tân Niên”.
Vào thời điểm nầy, đất trời Chicago chưa thấy có một chút màu xanh tươi nào cả, những hàng cây vẫn trơ cành, mặc cho tuyết phủ, không gian một màu trắng xoá, hoa tuyết phất phơ bay trong gió lạnh,  nhưng người Việt Nam sinh sống tại đây vẫn không quên Tết truyền thống ….nên hối hả đi mua những thứ cần thiết dành cho những ngày đầu Xuân trong ý hướng nhắc cho con cháu nhớ về cội nguồn và tập tục Tết Việt Nam.
Cộng Đồng Người Việt tại Chicago thường niên vẫn tổ chức Hội Chợ Mừng Xuân trong những phòng ốc rộng rãi, có đủ thứ trò chơi giải trí:  bầu cua cá cọp, tranh giải cờ tướng…. và các gian hàng bày bán các thức ăn thuần tuý Việt Nam, bánh chưng, bánh tét, chả giò, giò lụa ….có Lân múa mừng Xuân đón Tết và thường có mời rất đông quan khách, có cả thị trưởng địa phương tham dự.
Hầu hết người Việt cư ngụ tại thành phố Chiacago và các vùng phụ cận đều tham gia đông đảo, để nhân cơ hội nầy, trao nhau những lời cầu chúc “Hạnh Phúc và Trường Thọ”, nhất là các vị cao niên sẵn sàng giải thích cho các em cháu nghe  về truyền thống Tết Việt Nam và cũng sẵn sàng giải đáp những điều các em cháu thắc mắc về tập tục Việt Nam, về sử Việt Nam, về ca dao, tục ngữ , về cây mai cành đào, về ông đồ ngồi trên vỉa hè viết chữ, bán hoa tay…
Năm nay, phần tôi đóng góp, tôi xin giới thiệu hai bài thơ tả về ông đồ: bài thơ “Bóng Ông Đồ” của thi sĩ Vũ Đinh Liên, khai bút vào mùa xuân Nhâm Tuất (1982) đăng trên báo Người Lao Động số ra ngày 29-1-2006, mà báo nầy ca ngợi “Bài thơ Bóng Ông Đồ, xem như là Ông Đồ 2 - một sự tiếp nối hoàn hảo - mà nhà thơ đã âm thầm như một con tằm nhả tơ trong những năm tháng cuối của cuộc đời” và bài thơ “Ông Đồ Già” của nhà thơ Thế Nhân viết vào năm 1983.

Bóng Ông Đồ

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bút nghiên và giấy đỏ
Ngồi đúng chỗ ngồi xưa.

Ôi ! Cái nghiệp nghiên bút
Tô điểm cho cuộc đời
Người chết nghiệp không chết
Nợ tiền kiếp luân hồi.

Trải trăm ngàn dâu bể
Giấy mực màu không thay
Chữ Nhân và chữ Nghĩa
Vẫn những nét thẳng ngay.

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Khăn áo bạc màu dưa
Nhắc cho người qua thấy
Lẽ Nhân đạo, Thiên cơ.

Cách Mạng là nhân nghĩa
Ông Đồ là thi thư
Chữ tuôn dòng Thiện Mỹ
Từ ngón tay ông Đồ.

Xuyên qua bài thơ trên, ta thấy Vũ Đình Liên muốn cho “Ông Đồ” của ông sống lại, qua bài viết “Bóng Ông Đồ”. Ông tưởng tượng Ông Đồ của ông, xuất hiện trên đất Bắc vào năm 1936, đã chết theo thời Nho Học lụi tàn, nay hiện về, ngồi đúng chỗ ngày xưa, theo chu kỳ mỗi năm khi hoa đào nở, cùng bút nghiên, giấy đỏ, thi thố hoa tay…nhưng chỉ là chiếc “Bóng”, chỉ riêng tác giả thấy mà thôi.

      Mỗi Năm hoa đào nở
      Lại thấy ông đồ già
      Bút nghiên và giấy đỏ
      Ngồi đúng chỗ ngày xưa.

 “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên ngày xưa là một bài thơ bất hủ, một hình ảnh đẹp, cần được ông cho hiện về, tiếp tục cái nghiệp bút nghiên
      Người chết nghiệp không chết
Nợ tiền kiếp luân hồi

Nhưng rồi, nhờ bùa phép Cách Mạng, ông đồ được hóa thân, nhắc nhở cho mọi người thấy:

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Khăn áo bạc màu dưa
Nhắc cho người qua thấy
Lẽ Nhân đạo, Thiên cơ

Vũ Đình Liên cũng xác nhận ‘nghiệp nghiên bút” tô đẹp cho cuộc đời, tạo cho cuộc sống thêm ý nghĩa với chữ NHÂN và chữ NGHĨA lúc nào cũng giữ được nét thẳng ngay cùng lẽ NHÂN ĐẠO và THIÊN CƠ…nhưng có một điều làm cho nhiều người ngạc nhiên khi so sánh bài thơ “Bóng Ông Đồ”và bài thơ “Ông Đồ” của họ Vũ. Bài thơ “Ông Đồ” Vũ Đình Liên viết năm 1936, với tâm hồn khoáng đạt, vô tư, phục vụ cho nhân bản, còn bài thơ “Bóng Ông Đồ” viết vào năm 1982, mang ý nghĩa lệ thuộc vào Cách Mạng

     Cách Mạng là nhân nghĩa
Ông đồ là thi thư
Chữ tuôn dòng Thiện Mỹ
Từ ngón tay ông đồ

Sau khi bài thơ “Bóng Ông Đồ” ra đời năm 1982, có nhiều người chê ngòi bút của Vũ Đình Liên đã bị uốn cong đi phần nào và một số người khác từng thương mến bài “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên, tỏ ra hối tiếc và than rằng: “ Phải chi Vũ Đình Liên đừng viết bài thơ “Bóng Ông Đồ”; trong khi đó, có một số người khác bênh vực, cho rằng Vũ Đình Liên ở trong tư thế chẳng đặng đừng “Ăn cây nào rào cây ấy mà thôi”. Người viết thì cứ viết, cứ bày tỏ lòng mình lên trang giấy, còn việc phê phán là chuyện của người đời, cứ để người đời tự nhiên phê phán thôi…

Sau đây, tôi lại mời quí vị đọc bài thơ “Ông Đồ Già” của Thế Nhân, tả một ông đồ thật sự, ông đồ bằng xương bằng thịt (không phải là cái bóng), ông đồ có tên hẳn hoi, người đời thường gọi ông là Lý Tiên Sinh, ngụ tại hẽm Cây Me (hẽm 163 đường Hàm Nghi, nay là đường Cách Mạng Tháng Tám-Biên Hòa). Khoảng thập niên 80, Thế Nhân tình cờ gặp lại Lý Tiên Sinh vào những ngày cuối Đông, ông bày mực Tàu giấy đỏ trên lề đường, phía trước căn nhà số 14 B Phan Chu Trinh Biên Hòa và đang cắm cúi viết những câu liễn và vẽ những bức tranh…

Ông Đồ Già

            kính tặng Lý Tiên Sinh(Biên Hoà)

Năm nay đào lại nở,
Ông đồ lại ngồi đây…
Lý Tiên Sinh có phải?
Hình dáng có đổi thay!

Sau mấy năm cải tạo,
Nét bút vẫn như xưa.
Chấm phá đầy cương-quyết,
Ý-chí hãy còn thừa…

Nhũ vàng trên giấy đỏ:
Phúc tràn đầy biển đông,
Lộc cao, thêm cao mãi,
Thọ ngất trời Nam-Sơn.

Nầy, “dưỡng sơn sinh hải”
Nọ, “hòa khí xuân phong”
Ơn nghĩa kia sâu thẳm,
Gia thế ngát hương lòng.

Khuôn " Thiên Quan Tứ Phúc",
Bảng "Định Phúc Táo Quân",
Sao mà trang nghiêm thế !
Sức sống truyền ngàn năm.

Viết trên hai mươi năm.
Bán chữ vào độ xuân,
Vẽ thêm tranh tùng-hạc,
Lưỡng long, hổ, điểu, cầm...

Nét bút còn bay bướm,
Nét vẽ đọng xinh tươi
Tâm hồn đầy sảng khoái
Ở tuổi ngoài tám mươi.

                        Thế Nhân
                          (1983)

Qua bài thơ “Ông Đồ Già” trên đây, ta thấy nhà thơ Thế Nhân diễn tả được hoa tay tuyệt diệu của ông đồ Lý Tiên Sinh trong những câu chúc lành bằng chữ Nho (giống chữ Hán hay chữ Tàu ngày nay), với nét bút linh hoạt đầy sức sống, nói lên được nếp văn hóa truyền thống dân tộc, qua những câu
                        Phúc Lộc Thọ Trường
                        Ngũ phúc thọ vi tiên
                        Tứ thời xuân tại thủ
                        ….

Ngoài ra, Lý Tiên Sinh còn là một nhà họa sĩ tài danh, ông vẽ tranh màu nước theo lối thủy mặc. “Đồ nghề” của ông sử dụng, ngoài cây bút lông, nghiên mực, nhũ vàng, dùng để viết chữ, ông có thêm một hộp màu nước và vài miếng cao su cắt từ những  chiếc dép phế thải, làm dụng cụ vẽ. Gian hàng viết chữ nhỏ bé của ông thường có rất đông người bao quanh, xem ông vẽ và viết chữ, tay ông uyển chuyển, linh hoạt như cái máy, nguệch ngoạt, chấm phá thành những bức tranh tuyệt đẹp, mà độ sai lệch giữa hai tấm tranh cùng loại không cách biệt là bao… nhiều người đứng xem đã phải buộc miệng “ thật tuyệt vời”, tài viết chữ cũng như tài vẽ tranh của Lý Tiên Sinh chắc chỉ có một không hai ở Biên Hòa nói riêng và cả miền Nam thời bấy giờ nói chung. Tài nghệ của ông đã đạt đến độ “ bút pháp tung hoành, nhất khí quán hạ”, nét chữ trầm tĩnh, nét bút định hồn. Nhà thơ Thế Nhân rất ngưỡng mộ Lý Tiên Sinh ở tài viết chữ “như phượng múa rồng bay” và tài vẽ tranh thủy mặc điêu luyện với phong cách khoáng đạt dựa vào các đề tài của những bức tranh nổi tiếng, bát cảnh Tiêu Tương  bên Tàu ngày xưa:
Viễn phố qui phàm( chiếc thuyền buồm ở xa về)
Sơn tự hàng chung(tiếng chuông chùa từ trên núi vọng lại)
Bình sa lạc nhạn(đàn chim nhạn bay xuống bãi cát)
Sơn thị tình lam( Chợ chiều ở chân núi)
Ngư thôn tịch chiếu(náng chiều ở xóm chày)
Động đình thu nguyệt(cảnh trăng thu Động Đình Hồ)
Giang biên mộ tuyết( tuyết rơi bên sông lúc chiều xuống)
Tiêu Tương dạ vũ(mưa đêm trên sông Tiêu Tương)
Bộ tranh Tứ Linh (Long, Ly, Qui , Phụng)
Bộ tranh Tứ Nghiệp (Ngư-Tiều-Canh-Mục)
Bộ tranh Tứ Thời (Mai Lan Cúc Trúc)

 Khi nhà thơ Thế Nhân có dịp đi HO qua Mỹ năm 1991, Lý Tiên Sinh cảm kích bài thơ “Ông Đồ Già” nói trên, có viết tặng cho nhà thơ Thế Nhân ba tờ thư họa bằng chữ Nho có đệm hình bát tiên(Hớn Chung Ly, Hà Tiên Cô…..)và hình chim, hoa, bướm:
VẠN SỰ NHƯ Ý, 
HÒA KHÍ SINH TÀI
PHÚC LỘC THỌ (có chua thêm Phúc như Đông Hải, Thọ Tỷ Nam Sơn….)
và bốn bức tranh:
Hợp Nhất Gia (bức tranh mấy con gà),
Tùng Hạc Diên Niên(hai con hạc và mấy cây tùng),
Hoa Điểu Tương Đàm ( hoa và hai con chim)
Anh Hùng Tương Ngộ (Con cọp và chim đại bàng),

Đến nay nhà thơ Thế Nhân vẫn còn giữ kỹ các bức tranh và thư họa có bút tích và triện son của Lý Tiên Sinh đề “ Lý Tiên Sinh thân tặng” nói trên để làm kỷ niệm.
Thế Nhân và Lý Tiên Sinh, tuổi đời có chênh lệch, một trẻ một già, nhưng hai người rất cảm mến nhau, họ thường gặp nhau trao đổi về hội hoạ, thư pháp và văn thơ hoặc luận bàn về “nghệ thuật vị nghệ thuật’ hay “ nghệ thuật vị nhân sinh”  trong tinh thần tương đắc …có thể ví như chuyện Bá Nha với Chung Tử Kỳ. Thế Nhân kính phục tài vẽ tranh và thư pháp của Lý Tiên Sinh, ngược lại Lý Tiên Sinh cảm mến Thế Nhân qua những vần thơ tả thực.
Ngày đầu tiên gặp lại, Thế Nhân ngạc nhiên khi thấy Lý Tiên Sinh có phần gầy hơn trước, hỏi ra mới biết Lý Tiên Sinh bị bắt đi tù cải tạo về tội “phục quốc” và vừa được tha về….  lúc nầy, Lý Tiên Sinh đã ngoài tuổi tám mươi, nhưng Lý Tiên Sinh vẫn còn khỏe mạnh, và có thói quen, thường trầm ngâm bên bầu rượu đế vào những buổi chiều tàn và còn ăn uống rất mạnh… Và cũng từ đó Thế Nhân thường đến vấn an Lý Tiên Sinh, cảm kích tài nghệ viết chữ vẽ tranh cùng tính tình phóng khoáng và cương trực của Lý Tiên Sinh, nên sau cùng Thế Nhân viết bài thơ “Ông Đồ Già” tặng Lý Tiên Sinh, với những lời thực tế…
Năm nay đào lại nở
Ông đồ lại ngồi đây
Lý Tiên Sinh có phải ?
Hình dáng có đổi thay!
Sau mấy năm cải tạo, thân xác của Lý Tiên Sinh có gầy đi, nhưng tinh thần cũng như hoa tay và nét bút của Lý Tiên Sinh vẫn vững vàng, không có chút nào thay đổi…
            Sau mấy năm cải tạo
            Nét bút vẫn như xưa
            Chấm phá đầy cương quyết
            Ý chí hãy còn thừa…
Rồi, Lý Tiên Sinh cứ viết những câu chúc lành với lời hay, ý đẹp… tuôn tràn đậm dòng nhân bản…
            Nhũ vàng trên giấy đỏ
            Phúc tràn đầy biển Đông
Lộc cao thêm cao mãi
            Thọ ngất trời Nam Sơn…

            Nầy “Dưỡng sơn sinh hải”
            Nọ “ Hòa khí xuân phong”
            Ơn nghĩa kia sâu thẳm
Gia thế ngát hương lòng.

Khuôn “Thiên Quan Tứ Phúc
Bảng “ Định Phúc Táo Quân
Sao mà trang nghiêm thế
Sức sống truyền ngàn năm.

Lý Tiên Sinh cho Thế Nhân biết, ông rất đam mê thư pháp chữ Nho và vẽ tranh thuỷ mặc từ thời còn nhỏ, nhưng thực hiện việc làm “ông đồ” bán chữ vẽ tranh chỉ chừng hơn hai mươi năm thôi(khoảng thời gian từ 1963 đến 1983).
           
Viết trên hai mươi năm
Bán chữ vào độ xuân
Vẽ thêm tranh tùng hạc
Lưỡng long ,hổ, điểu, cầm

Nét bút còn bay bướm
Nét vẽ đọng xinh tươi
Tâm hồn đầy sảng khoái
Ở tuổi ngoài tám mươi.

Tôi cảm thấy có duyên và rất thích thú được đọc những bài thơ tả về “ông đồ” của tiền bối Vũ Đình Liên và kẻ hậu sanh Thế Nhân, những bài thơ năm chữ, rất duyên dáng, tả ông đồ trong từng bối cảnh xã hội Việt Nam khác nhau
Bài “Ông Đồ”  Vũ Đình Liên viết năm 1936, một bài thơ bất hủ, tả thân phận “ông đồ” trong thời Nho Học lụi tàn.. với hoài niệm chút hương xưa “những người muôn năm cũ… hồn ở đâu bây giờ”…
Bài “Ông Đồ Nhỏ” của Thế Nhân, viết sau năm 1975, khi dải đất Miền Nam đã thay ngôi đổi chủ, dân chúng lâm vào cảnh khốn khó, không có ai thừa tiền để mua chữ nghĩa vui xuân, nên  văn chương chữ nghĩa rẻ như bèo, đến nỗi “ Những người yêu nét bút, những khách trọng văn thơ, đã đi về thiên cổ, chắc hồn còn ngẩn ngơ”…
Bài “ Bóng Ông Đồ” của Vũ Đình Liên khai bút vào xuân Nhâm Tuất(1982), thời Miền Nam đang tiến dần lên Xã Hội Chủ Nghĩa, với sự tưởng tượng ông đồ hiện về. “Bóng Ông Đồ”, cái Bóng nhưng rất tận tình phục vụ cho Cách Mạng…
Bài “Ông Đồ Già” của Thế Nhân, viết năm 1983, tả về tài nghệ của ông đồ Lý Tiên Sinh, người của chế độ cũ, tham gia tổ chức Phục Quốc và bị bắt cải tạo…mặc dù tuổi tác cao nhưng vẫn giữ được phong độ trong nghệ thuật vẽ tranh, viết liễn và thư hoạ.

So sánh hai bài thơ “Bóng Ông Đồ” và “Ông Đồ Già” trên đây, ta thấy hai thi sĩ đều viết theo thể ngũ ngôn(loại thơ, mỗi câu năm chữ và mỗi đoạn bốn câu), “Bóng Ông Đồ” có năm đoạn, bài “Ông Đồ Già” có bảy đoạn, được viết trong khoảng thời gian gần nhau, 1982-1983, Vũ Đình Liên tả bóng ông đồ, được nhiều người đánh giá, coi như là  “Ông Đồ” 2, nhưng thực tế chỉ là một cái “Bóng”, mà đã là cái bóng thì không phải thật, thì làm sao có thể phục vụ hữu hiệu cho Cách Mạng được, bài thơ mang tính gượng ép…, chỉ là bóng thì làm sao “Ông đồ vẫn ngồi đấy- Khăn áo bạc màu dưa”,  để “ Nhắc cho người qua thấy- Lẽ Nhân đạo- Thiên cơ” hoặc thấy “ Chữ tuôn dòng Thiện Mỹ -Từ ngón tay ông đồ” . Đã là chiếc Bóng hay Bóng Ma, hoặc Bóng Đè… chỉ riêng  tác giả bài “Ông Đồ” thấy mà thôi…. Có một tờ báo(tôi không nhớ tên) đã nhận xét về bài thơ nầy như sau “Thật khó mà tin được rằng bài “Bóng ông đồ” lại là tác phẩm vào lúc cuối đời của họ Vũ . Nhất là trong thời buổi hàng nhái, hàng giả, bằng cấp vàng thau lẫn lộn từ bao nhiêu năm rồi ở quê nhà. Thật lòng không muốn tin rằng cụ Vũ lại có thể “xuất chiêu” theo cái lối kê toa thuốc tễ như thế. Nhưng nếu quả là vậy thì đúng là cụ đã tiên tri mấy mươi năm về trước rồi”

Còn bài “Ông Đồ Già” của Thế Nhân, tác giả không đề cập gì đến chính trị, chỉ thuần tuý tả về thân phận và nghệ thuật thư họa của ông đồ Lý Tiên Sinh. “ Sau mấy năm cải tạo - Nét bút vẫn như xưa - Chấm phá đầy cương quyết - Ý chí hãy còn thừa”, cùng tài nghệ tuyệt vời của ông ấy “Viết trên hai mươi năm - Bán chữ vào độ xuân - Vẽ thêm tranh tùng hạc - Lưỡng long , hổ, điểu. cầm” để rồi đến tuổi quá tám mươi mà “Nét bút còn bay bướm- Nét vẽ đọng xinh tươi- Tâm hồn đầy sảng khoái- Ở tuổi ngoài tám mươi”.

Đã hơn ba phần tư thế kỷ trôi qua, hình ảnh Ông Đồ mỗi năm lại vắng dần, cho đến hôm nay họa hoằn lắm còn được vài “ông đồ” đúng nghĩa với tuổi đời chồng chất, hoặc đã lên hàng thượng thọ, chín mươi hoặc trăm tuổi rồi, các vị nầy không còn khả năng cho nét chữ “phượng múa rồng bay” nữa, nhưng họ rất trang trọng đối với chữ NHO( loại chữ cỗ của Việt Nam), mà họ luôn luôn cho đó là chữ của THÁNH HIỀN và họ rất hãnh diện đã một thời là tín đồ của Tam Giáo (Phât-Lão-Nho ?). Họ luôn tôn trọng nét đẹp trong nề nếp cũ với “ Tam Cương Ngũ Thường” dành cho đấng trượng phu, và “Tam Tùng Tứ Đức” dành cho những người phụ nữ tiết hạnh đoan trang, trong số những người nầy, tôi thấy còn nhà thơ trào phúng Tú Sót (tên thật là Chu Thành), còn giữ được phong cách “ông đồ” , vẫn còn viết chữ, bán hoa tay vào mỗi độ Xuân Về Tết Đến trong khung trời Hà Nội,  mặc dù tay của ông hơi run và  mắt của ông đã kém vào dịp Xuân Bính Tuất (2006).
Ông đồ mỗi ngày mỗi vắng, chữ Nho mỗi ngày ít người biết đọc, nhưng những chữ thông thường như “Phúc Lộc Thọ”, Hợp Nhất Gia”, “Ngũ Phúc Lâm Môn”, “Hòa Khí Sinh Tài”….đã trở thành nề nếp truyền thống trong nền văn hóa Việt Nam. Tôi mong bài viết nầy mang đến cho quí vi một chút ý vị  thâm trầm trong những ngày đầu Xuân Kỷ Sửu -2009.

                                                                    Chicago, ngày 12-12-2008
                                                                              MỘC ĐÌNH NHÂN

*Vũ Đình Liên sanh ngày 12-11-1913  tại Hải Dương mất ngày 18-1-1996 tại Hà Nội. Tác phẩm: Ông Đồ (một bài thơ trường thọ) và những bài thơ Lòng Ta Là Những Thành quách Cũ, Bông Hoa Úa, Ông Lão Hát Xẩm…Bóng Ông Đồ

**Thế Nhân, là bút hiệu của anh Nguyễn Kim Lộc, sanh ngày 21-4-1937 tại Bình Trước Biên Hoà, đang định cư tại Mỹ,  có thơ đăng trên các nguyệt san Hải Ngoại Nhân Văn, Người Việt Illinois, Chicago Việt Báo, Diễn Dàn Chicago, Hôm Nay,  Tuần San Việt Nam Online (Canada) …và nhiều bài viết đăng trên Bản Tin Hội Ái Hữu Biên Hoà và trên nhiều website khác, tác giả bài “Ông Đồ Nhỏ” và bài “Ông Đồ Già”đề cập trên đây.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét