Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

TRƯỜNG MỸ NGHỆ BIÊN HÒA

TRƯỜNG MỸ NGHỆ VÀ GỐM MỸ THUẬT BIÊN HOÀ

            Khi nhắc đến các trường học ở Biên Hoà, như trường Tiểu Học Tỉnh lỵ Biên Hoà (L’Ecole Primaire de Bienhoa), được thành lập năm 1915,  sau nầy là trường Tiểu Học Nguyễn Du; trường Nữ Tiểu Học nơi đầu dốc Thành Thái, đến trường Trung Học Tư thục Thanh Thận đầu tiên, đường Trịnh Hoài Đức Biên Hoà, do ông giáo hồi hưu Phan Thanh Cần thành lập vào năm 1952 (chỉ có vài lớp học, do cô Hai (dâu của ông giáo Cần) và ông Trần Văn Giáo ở Tân Phú, phụ trách); trườngTrung Học Tư Thục Phan Chu Trinh, ở đường Đấp Mới, do giáo sư Phan Đình Mai làm hiệu trưởng; trường Tiến Đức đường Phan Đình Phùng, do ông Trương làm hiệu trưởng; trường Trung Học Công Lập Ngô Quyền đường Trịnh Hoài Đức; trường Trung Học Tư Thục Khiết Tâm trong khuôn viên nhà Thờ Công Giáo Biên Hoà;  trường Trung Học tư Thục Minh Tân đường Hàm Nghi (do thầy Huỳnh Bá Hạnh và thầy Nguyễn Tường Triệu chủ trương), trường trung Học bán công Trần Thượng Xuyên kế cận trường Ngô Quyền Biên Hoà…mà không đề cập đến trường Mỹ Nghệ  Biên Hoà là một điều thiếu sót…

  Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà (École D’Art Bienhoa) được thành lập vào năm 1903, một truờng dạy nghề, đặt tại góc đường Nguyễn Thái Học và đường Nguyễn Hữu Cảnh, kế cận Toà hành Chánh Biên Hoà, với tên Trường Bá Nghệ Biên Hoà. Khởi đầu, do Ông Chesne, Chánh Tham Biện tỉnh Biên Hoà, kiêm nhiệm hiệu truởng, trường có các ban:  Vẽ - Trang trí, Điêu khắc - Chạm trổ, Đan lát, Nắn đắp tượng, Xây đồ sành sứ, Đổ thuỷ tinh, Đúc đồng, riêng ban Gò, Hàn sắt và đóng móng ngựa đến tháng 4-1905, mới được hợp thức hoá. 
Chương trình học bốn năm. Hai năm đầu học sinh học tổng quát các môn căn bản vẽ, nắn, tạc tượng và mỗi ngày đều có một giờ học văn hoá phổ thông về Quốc ngữ, chữ Nho, chữ Pháp, hoặc toán do các thầy trường Nguyễn Du, luân phiên giảng dạy. Hai năm kế tiếp, học sinh chọn ngành chuyên môn hoặc gốm mỹ thuật hoặc ngành đúc đồng …và có chương trình học thêm chữ Nho, chữ Pháp trình độ giao dịch thông thường và môn tính nhẩm vào buổi tối từ 6 giờ đế 7 giờ 30.

Các học sinh được thu nhận vào trường Bá Nghệ Biên Hoà, đều được cấp học bổng 4 đồng đến 7 đồng mỗi tháng, do làng xã cung cấp.Trường cũng có nhận học sinh tự do, nhưng các học sinh nầy không được hưởng trợ cấp.
Năm đầu tiên, trường thu nhận 55 em từ 12 đến 18 tuổi vào tháng 8-1903 và đến cuối năm số học sinh lên đến 64 người.
Năm 1905, trường có 76 học sinh, tuổi nhỏ nhất là 13 và lớn nhất là 17.  Vào năm nầy, trường có ông Roth, người Âu, phụ trách ban sắt, còn các đốc công các ban khác đều do người Việt và người Hoa đảm nhiệm, giảng dạy theo phương pháp xưa, và có các học trò đốc công phụ giảng.
Tháng 9-1906, ông J. Lamorte, một kỹ sư công nghệ, được mời phụ trách điều hành kỹ thuật và giảng dạy các môn tổng quát. Và cũng vào năm nầy trường có mở tuyển sinh ngành gốm mỹ thuật.
Tháng 3-1907, trường Mỹ Nghệ Biên Hoà được ông Maspéro, Tỉnh trưởng cho phép lập Hội Đồng Quản Trị điều hành nhà trường, chánh thức lập thêm ban Gốm Mỹ Thuật và Ban Nữ Công Gia Chánh, dạy cắt may, đan, thêu, dệt thảm.., do một phụ nữ người Pháp tên Buard phụ trách và sau nầy bà Vũ Thị Hằng tiếp nối làm hiệu trưởng đầu tiên. Năm nầy số học sinh tăng lên 118 người và số học trò đốc công tăng lên con số 12 vị.
Tháng 8-1908, ông J. Lamorte xin nghỉ việc, và ông A. Joyeux, một kiến trúc sư, đang giữ chức vụ thanh tra các trường mỹ thuật bản xứ, được đề cử thay thế, làm hiệu trưởng.   

Năm 1913, Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà đổi tên thành Trường Mỹ Nghệ Bản xứ Biên Hoà (École d’Art Indigène Bienhoa), thời gian đào tạo là 3 năm, vẫn do A. Joyeux điều hành. Đến năm1916, thời gian học tập được nâng lên một năm. Năm 1918, Ông Serré, thầy giáo dạy tại trường nầy, được đề cử thay ông A. Joyeux…

Năm 1923, Chánh phủ Pháp bổ nhiệm hai vợ chồng người Pháp, ông Robert Balick, tốt nghiệp trường Mỹ thuật trang trí Paris và bà vợ, Marie Balick, tốt nghiệp trường gốm Limoges-Pháp, đến quán xuyến trường Mỹ nghệ Biên Hoà với phương vị, ông Balick làm hiệu trưởng và bà Balick giữ vai phụ tá, trực tiếp phụ trách ban gốm mỹ thuật.  Sau đó một thời gian, trường có sự cải tổ, bỏ bớt một số môn; giao ban Chạm Khắc gỗ quí cho trường dạy nghề Thủ Dầu Một, Ông Balick chỉ giữ ban gốm mỹ thuật và đúc đồng, đồng thời đổi tên là Truờng Mỹ Nghệ Thực Hành Biên Hòa (École des Arts Appliqués Bienhoa), Ông Balick phụ trách ban Đúc Đồng với ba đốc công, người Việt Nam và 21 học trò. Bà Balick phụ trách Ban Gốm với một đốc công và  12 học trò, và cùng hợp tác hoạt động với quí thầy dạy nghề …

Sau khi ông bà Balick về Pháp, ông Pochont được cử làm Hiệu Trưởng Trường Mỹ Nghệ và đến ở tại ngôi nhà của hai vợ chồng ông bà Balick từng ở nói trên, nhưng sau đó không lâu ông Pochont cũng trở về Pháp. Ông Đặng Văn Quới còn gọi là ông Quản Quới (ông thân sinh của ông Đặng Văn Lâu, chủ nhà nhiếp ảnh “Studio d’Art” và Mỹ Dung khoảng ngang nhà hàng Hạnh Phước đường Nguyễn Hữu Cảnh Biên Hoà), làm hiệu trưởng và ông Bạch Đường Khúc tự Trinh, còn gọi là thầy đội Trinh, nhạc phụ của cựu Thiếu Tá QL/VNCH Nguyễn Văn Tài cũng là nhà văn Hoàng Anh Tài, hiện định cư tại Pháp) làm hiệu phó. Và khi ông Quới và ông Khúc về hưu, ông Trần Văn Ơn, thầy dạy đắp tượng (nhà ở Chợ Đồn, sau nầy là xã Bửu Hoà) được cử thay thế chức vụ hiệu trưởng….
          Sản phẩm gốm Mỹ thuật Biên Hoà vốn đã nổi tiếng vào thời điểm nói trên, càng nổi tiếng thêm, nhờ các tay thợ lành nghề, bậc thầy, đã góp nhiều công sức trong việc tạo mẫu mã, biến chế men và nhiệt tình đào tạo nhiều thế hệ kế tiếp…..

Thầy Huỳnh văn Thọ (còn gọi là Ông Cả Chà, thân phụ của anh Huỳnh Văn Thà), nhà ở Cây Chàm (Tân thành-Biên Hoà) dạy đắp tượng, chính ông Ba Thọ là tác giả đắp tượng “Bạch Mã” thờ tại đình Tân Lân Biên Hoà.
Thầy Huỳnh Quan Thường, nhà ở Cù Lao Phố (đường vào Chùa Ông)
Thầy Đặng Cẩm Hồng (anh rể của anh Trần Văn Là, cũng xuất thân từ Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà), dạy vẽ và trang trí, từng được học bổng, sang Pháp du học về Gốm và Hội hoạ. Tác phẩm nổi tiếng của thầy Hồng là tượng 'Ba Con Hải Âu'.
-Thầy Nguyễn Văn Hai tự Hai Phan
-Thầy Nguyễn Văn Thâu (cậu của ông Trần Mành, Trần Xuân… chủ rạp hát Trần Điển đường Phan Châu Trinh và Lý Thường Kiệt Biên Hoà)
-Thầy Nguyễn văn Cừ, dạy về đá nhân tạo
-Ông Mã Phiếu, phụ tá nhiều đời hiệu trưởng, phụ  trách hành chánh tài chánh (là thân phụ của chị Ma Thị Ngọc Huệ, hiện đang định cư tại Nam California (Hoa Kỳ)
-Thầy Lê Văn Mậu (sau nầy làm Giám đốc trường Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định thế ông Đỗ Đình Hiệp), dạy vẽ, nắn, tạc tượng và điêu khắc… có người vợ rất đẹp và đoan trang. Ông ở một căn trong dãy phố của ông Trần Điển, căn bìa giáp miếng đất nhà của anh Nguyễn Văn Lung tự năm Lọ (chủ tiệm vàng Nguyễn Văn Tới) đường Trịnh Hoài Đức BH. Trong nhà của ông có nhiều tác phẩm gốm kỹ thuật, tượng ba con khỉ (một con bịt mắt, một con che tai và một con bụm miệng), tượng hai con trâu cụng lộn, ngoài ra còn nhiều tượng người đẹp, có gương mặt giống nhau, đó là tượng của vợ ông, được ông tạc vào nhiều thời điểm khác nhau, ông Mậu có hai người con, một trai tên Lê Văn Hiệp và một gái tên (?)đều tốt nghiệp tường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định….Sau ngày 30-4-1975, ông Mậu bán nhà ở Biên Hoà về quê vợ ở Vĩnh Long và đã qua đời cách đây vài năm, trong sự tiếc thương của đồng hương Biên Hoà đối với một hoạ sĩ kiêm điêu khắc gia tài ba.
-Thầy Nguyễn văn Thông, dạy về hội hoạ
-Thầy Trương văn Chỉ, từng là hiệu trưởng trường Mỹ Nghệ Biên Hoà, từng đứng lớp giảng dạy về hội Hoạ và nắn tượng, là thân phụ của chị Trương thị Ngọc Hương, đang định cư tại Thuỵ Sĩ. Tác phẩm để đời của thầy là con ngựa xích thố bằng thạch cao được đưa lên xưởng sơn mài Thành Lễ Bình Dương, phủ một lớp sơn đặc biệt (loại làm sơn mài)…. tượng nầy được chị Trương thị Ngọc Hương mang qua Thuỵ Sĩ từ lâu, nhưng con ngựa xích thổ nầy, hiện nay, đã được người cháu ngoại của ông Trương Văn Chỉ là cậu Nguyễn Thanh Phong con của cô Trương Thị Ngọc Loan (ở  Kansas), xin đem về  Florida (Mỹ) để giữ làm kỷ niệm….   
-Thầy Ung Văn Nam, phụ trách dạy si đen tượng đồng, là thân phụ của anh Ung Thành Hoàng(Hải Quân), chị Ung thị Phước, giáo viên tỉnh Biên Hoà, tác phẩm độc đáo của bác Năm Nam là tượng đồng “Đầu cô Gái VN”
-Thầy Nguyễn Văn Đinh dạy đổ khuôn thạch cao
-Thầy Nguyễn Văn Nhàn, dạy xây, từng nhận được bằng khen “Hạng Đặc  Biệt” về tài năng điều chế men, tại  Hội Chợ Hà nội năm 1938.

Các người thợ lành nghề:
-Đoàn Văn Thắm (thân phụ của giáo sư Đoàn văn Trọng, hiệu trưởng trường Nam Hà -Cù Lao Phố, trước 1975)
-Nguyễn Văn Tâm, thợ đúc đồng, con rể của ông Hai Chà chủ lò rèn phía sau rạp hát Biên Hùng thuở xa xưa. Khoảng năm 1964 ông Tâm có mở xưởng đúc tượng đồng tại gia, phía sau dãy phố của ông Ba Hoà, chủ cây xăng Biên Hùng. Sản phẩm đúc đồng của xưởng ông Tâm được xuất cảng ra nước ngoài, ba tượng đồng ba phụ nữ người ViệtBắc, Trung, Nam, rất được nhiều người ưa chuộng.
-Nguyễn Trí Đồng, Trưởng Ban Gốm
-Nguyễn Trí Vạn, thân phụ của anh Đạo, chủ lò gốm mỹ thuật tại Tân Vạn khoảng năm 1964, có một khoảng thời gian khách yêu chuộng nghệ thuật và kiểng hoa, tấp nập đến xưởng gốm của anh Đạo, để mua hoặc đặt mua những cây xương rồng kiểng trồng các chậu gốm mỹ nghệ thật đẹp và sang trọng
-Đào văn Lương  Trưởng Ban Đồng (ở Cù Lao Phố, là thân phụ của giáo sư Đào thị Nga dạy Anh Văn và giáo sư  Đào Văn Sáu dạy Công Dân và Anh Văn trường Trung Học Ngô Quyền Biên Hoà.
- Ông Răng, dạy điêu khắc,
-Ông Bế (nhà ở Bửu Long), dạy vẽ và tạc tượng
 -Phạm Văn Bác, -Võ văn Luông, -Ông Ngôn,…

Thầy dạy phổ thông:
Quí thầy Nguyễn Hữu Lợi, Tống văn Quang, Đinh Văn Sái, Trần văn Lộc. Bùi Quang Huệ, Nguyễn Văn Thông….

Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, hai vợ chồng ông Balick trở về Pháp. Đến khoảng tháng 10-1948, hai ông bà Balick trở qua Việt Nam, tiếp tục điều hành trường Mỹ Nghệ Biên Hoà…
 
Trường đã đào tạo số học viên nồng cốt  như sau:
-Ông Nguyễn Văn Thế, còn gọi là chú Sáu Thế, người xuất thân từ trường Mỹ Nghệ Thực Hành Biên Hoà và sau đó, tốt nghiệp qua các trường cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định, trường Mỹ Thuật Hà Nội và được học bỗng du học tại Pháp…khi trở về Việt Nam phục vụ tại Văn Phòng Cố Vấn Mỹ thuật thuộc Phủ Tổng Thống thời đệ nhất Cộng Hoà, chung với Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ….)
-Thầy Phạm Văn Mẫn, dạy vẽ trường Tiểu Học tỉnh lỵ Biên Hoà
-Anh Sáu Ninh (Nguyễn An Ninh?), phụ trách Hợp Tác Xã gốm mỹ thuật, đồng thời là thầy dạy đắp tượng
 -Ông Năm Chôm, thợ đúc đồng…
-Anh Dần (ở cư xá Thái Lập Thành-đường Trịnh Hoài Đức), thợ lò
-Anh Huỳnh Văn Thà (con của bác Huỳnh văn Thọ), thợ  xây
-Anh Xướng (Anh em chú bác với anh Huỳnh Văn thà) nhà ở Cây Chàm Biên Hoà, thợ xây và tạo mẫu
-Anh Trần Văn Là tự Út Bùi (em của anh Trần Văn Khì, nổi tiếng nấu đồ Tây xuất sắc, cũng là em rễ của thầy Đặng Cẩm Hồng). Anh Út Bùi là người thợ mỹ nghệ khéo tay nổi tiếng Biên Hoà về ba lãnh vực, vẽ (tạo mẫu), xây nắn và đắp tượng, hầu hết các xưởng gốm mỹ thuật ở Biên Hoà, và cả Bình Dương đều có bàn tay giúp việc của anh; nhưng anh quan niệm cuộc đời là cõi tạm, là phù du, nên anh có ý hướng tu hành rất sớm, tâm niệm khai đạo và cứu đời, các chùa cần vẽ, cần đắp tượng Phật anh sẵn sàng đến làm công quả….những ngày tháng sau 1975, anh sanh sống bằng tay nghề mỹ thuật,  lãnh xây hòn non bộ , cùng điêu khắc và trang trí bàn thờ từ đường. Hoạ phẩm của anh mà tôi thích nhất là bức tranh mâm ngũ quả đặt cạnh lá cờ Phật giáo bị rách một lỗ.
Anh Trần Ngọc Ẩn (anh của cô giáo Giếng dạy trường nữ Tiểu Học Biên Hoà, cũng là anh của Trần Kim Biên, hiện ở California-USA), bị động viên, phục vụ ngành Không Quân, người phụ trách nghiên cứu và vẽ phù hiệu, huy hiệu của ngành Không Quân VNCH.
Anh Nguyễn Văn Thanh, phu quân của chị Dương Thị Thể, con của ông Quản Đẩu, nhà ở thuở xa xưa là căn phố đối diện căn phố của ông giáo Cần (Phan Thanh Cần), xuất thân từ Truờng Mỹ Nghệ Biên Hoà, nổi tiếng về hội hoạ.
Anh Nguyễn Văn Bạch, nổi tiếng về vẽ trên giấy, trên vải, và vẽ trên sân cỏ, mang số 10 của đội tuyển bóng tròn Biên Hoà, bị động viên,phục vụ tại Phòng Đồ bản Bộ TTM, KBC 4002, đường Trần Hưng Đạo Sài gòn, sau qua ngành Cảnh sát, biệt phái Văn phòng Mỹ Thuật Phủ Tổng Thống, phụ trách nghiên cứu sắc phục và phù hiệu ngành Cảnh Sát…. bức tranh nổi bật là bức tranh sơn dầu vẽ chiếc trực thăng bay qua hàng dây điện giữa khung trời mùa hạ.
-Anh Trí tự Bé, nhà ở gần hãng kẹo Mạch Nha khu Chùa Một Cột, Phường Hoà Bình-Biên Hoà, có mở xưởng gốm mỹ thuật tại gia….
- Anh Liệt (phu quân của cô giáo Tính, nhà ở xã Tân Thành-Biên Hoà) một hoạ sĩ, cũng là một nhà thơ với bút hiệu Hoàng Trung Liệt
-Anh Đạo (con của chú Bảy Vạn, nhà ở Tân Vạn, thợ  đúc đồng), anh Đạo mở xưởng gốm mỹ nghệ tại nhà ở Tân Vạn –Biên Hoà, xưởng gốm của anh Đạo, có một thời gian rất đông khách, nhờ những chậu mỹ nghệ nhỏ có phong cách riêng, trồng đủ loại xương rồng kiểng trổ hoa rất đẹp….
          -Anh Đỗ Nam và Lê Bá Đáng mở gốm mỹ thuật ở Hoá An-Biên Hoà, bảng hiệu Gốm DONA, cơ sở rộng lớn và sản xuất mạnh nhất Biên Hoà, sản phẩm đẹp nổi tiếng trong và ngoài nước.
-Anh Nhựt, anh Cao (Hai anh em ruột),-anh Lực, anh Lào (đều ở Cù Lao Phố), -Anh Trí (Bửu Hoà), anh Tiếng (Xóm Cây Chàm), đều là những người thợ có tay nghề cao, nắn hay, vẽ giỏi…
-Anh Nguyễn Văn Phép, sanh năm 1942, trước 1975,  ngụ ở xóm Vườn Điệp số 109/41/3A đường Phan Châu Trinh Biên Hoà, xuất thân từ trường Mỹ Nghệ Biên Hoà, cựu giáo sư trường Trung Học Cao Thắng Sài Gòn, từng mở hội quán hội hoạ, Trưởng Bộ Môn Gốm Mỹ Thuật Sài gòn, có xưởng Điêu Khắc tại Cầu Hang Quốc lộ 1A xã Hoá An Biên Hoà, từng đoạt nhiều giải nhất về Triễn Lãm và trang Trí Giáo Dục Kỹ Thuật và Nông Lâm Súc tại Sài Gòn. Sau ngày 30-4-1975, anh Phép trở về  Biên Hoà, làm công nhân cho công ty giấy COGIVINA, nhưng anh đã bị bắt đưa vào trại giam B5, ngang Dưỡng Trí Viện Biên Hoà, rất sớm vì một tấm hình trên bìa báo do anh Phép vẽ một nữ công nhân được bình bầu xuất sắc, có mái tóc che phủ nửa bên mặt, vẽ đúng mẫu người công nhân tiên tiến ….nhưng ban lãnh đạo nhà máy cho rằng anh cố tình xuyên tạc, bôi lọ chế độ, vẽ công nhân tiên tiến mà chỉ thấy có một mắt (bức họa một nữ công nhân với suối tóc che nửa khuôn mặt và suối tóc có ba sọc dài đậm với dạng lá cờ VNCH…nên anh bị bắt. Sau ngày ra tù anh Phép làm việc cho xưởng gốm mỹ thuật của ông Năm Hoà tại Cầu Hang Biên Hoà có tên là BIHIMEX (?)…. Gần đây, năm 2010, tôi được tin anh Phép bị chứng bịnh đường ruột, trong khi giải phẩu, huyết áp gia tăng đột ngột,  gây tai biến mạch máu não, khiến tê liệt nửa thân người, anh đang sng trong niềm vô vọng …..Hằng ngày anh nhìn các tác phẩm nghệ thuật của anh mà nước mắt cứ rưng rưng, ý chừng, tiếc không còn đủ sức để thực hiện những hoài bảo phục vụ nghệ thuật hội hoạ cho đời…  
-Anh Trần Văn Lên (con của Bà Mười, nhà ở đường Lương Văn Thượng-Biên Hoà), từng học trường Mỹ Nghệ Biên Hoà (?), sau đó tốt nghiệp trường trang trí Mỹ Thuật Gia Định, chính anh Lên đã tạc tượng Trần Hưng Đạo tại công viên bến Bạch Đằng Sài gòn
-Anh Lầu (con của ông Năm Lềnh, bán kim chỉ tại chợ Biên Hoà), là một hoạ sĩ tài ba, là giáo sư uy tín về môn hội hoạ; sau năm 1975, anh buồn vận nước, tình đời, trở nên người thất chí, mượn rượu giải sầu đến chết
-Anh Trần Thanh Thanh, xuất thân trường Mỹ Nghệ Biên Hoà, nhà ở khu chợ Kỷ Niệm, có bà mẹ phụ giúp công việc cho trường Tiểu học Trịnh Hoài Đức, thời thầy Nguyễn Thành Phách (thân phụ của Bác sĩ Nguyễn Thành Phước) làm hiệu trưởng. Sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ Thuật Gia Định, Trần Thanh Thanh nổi tiếng về điêu khắc, nhưng Thanh không bao giờ quên ơn những vị ân nhân đã từng giúp ThanhThanh thành công trong việc học hành, gồm có tất cả quí thầy của trường Mỹ Nghệ Biên Hoà và thầy Nguyễn Thành Phách.
-Em Hồ Xuân Định (em của nhà thơ Hoàng Ánh Nguyệt), sau khi học Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà và tốt nghiệp Trường cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định, được gọi nhập ngũ ngành Pháo Binh VNCH…bị thương và được giải ngũ… Sau năm 1975, làm việc cho các công ty dược phẩm ở Sài Gòn, chuyên vẽ mẫu nhãn hiệu thuốc… Em đã qua đời cách đây vài năm. Nét vẽ còn lưu dấu của hoạ sĩ Hồ Xuân Định là một bức tranh sơn dầu khổ 2 m2 x 1m5, vẽ một đôi tình nhân người Nhật, tuyệt đẹp, có tên là “Âu Yếm” 





Quá Trình Hoạt động của Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà.
Theo tài liệu trong vài bài báo xưa cũ, Truờng Mỹ nghệ Biên Hoà, được thành lập vào năm 1903, với tên Trường Bá Nghệ, dạy nhiều ngành nghề: mộc, rèn, đúc đồng, gốm mỹ thuật, đan lát, gia chánh, vẽ cảnh, vẽ chân dung, điêu khắc, nắn đắp tượng…nhưng sau đó, vào năm 1916, trường có sự cải tổ, đổi tên là Trường Mỹ Nghệ Thực Hành Biên Hoà, đồng thời, giản thể một số bộ môn, chỉ còn dạy vẽ, nắn, xây và đúc đồng.
Trường trải qua nhiều hiệu trưởng người Pháp, nhưng người đem lại sự thăng tiến cho trường Mỹ Nghệ Biên Hoà là hai vợ chồng ông Robert Balick. Năm 1923, chính phủ Pháp bổ nhiệm ông bà Balick, người Pháp, đến điều hành trường, ông Balick làm hiệu trưởng và bà Balick giữ vai trò phụ tá, đặc trách ngành gốm. Nhờ sáng kiến của bà Marie Balick, trường cho thay đổi các mẫu mã và cải biến nước men từ tro pha với mạt đồng tạo màu xanh đồng “vert de Bienhoa”đẹp nổi tiếng thế giới, không thua màu xanh Islam trong kiến trúc đạo Hồi …Bà Balick cũng cho đi tìm những nguồn đất ở vùng Đất Cuốc (Tân Uyên) và vùng Chánh Lưu (Thủ Dầu Một), loại đất chịu lửa tốt, rất thích hợp cho việc làm gốm mỹ thuật. Bà còn chế ra một loại men đá đỏ rất đẹp và chịu lửa đến 1280 độ,  biến chế từ đá ông, giúp hạn chế được sự biến dạng màu sắc và những vết nứt trên men. Từ đó,  sản phẩm gốm Biên Hoà được những người ưa chuộng nghệ thuật, đặc biệt chú ý, nhưng mãi đến mười năm sau, khoảng 1933, trường cho thành lập Hợp Tác Xã Gốm, thu nhận các cưụ học viên đã tốt nghiệp, ở lại trường, chuyên lo việc sản xuất. Trường mở thêm một chi nhánh gọi là trường Mỹ Nghệ Trong toạ lạc trên đường Trịnh Hoài Đức, khoảng ngang đài Kỷ Niệm Biên Hoà, để tiện thiết lập lò nung rộng lớn, có nhiều bàn xây và khuôn mẫu để dạy về thực hành, đồng thời giảm bớt  việc nung sản phẩm tại trường chánh (đường Nguyễn Hữu Cảnh), hầu tránh phần nào khói và bụi than gây  ô nhiễm cho Toà hành Chánh kế cận và nhà Thờ Công Giáo đối diện trường.
Thập niên 40, các học sinh ra trường, đều được thu nhận ở lại trường vừa học vừa làm, với giá lương 20 đến 30 đồng mỗi tháng (tương đương một tấn gạo thời giá), ngoài ra còn lãnh thêm một số tiền khoán sản phẩm .

Những sản phẩm hoàn hảo, sẵn sàng tung ra thị trường….thường phải qua các giai đoạn: chọn lọc đất, nắn, phơi, vẽ, khắc, chấm men, kiểm soát trước khi cho vào lò nung, hầm đúng độ nóng, trong thời lượng ấn định….Hàng ra lò được chở ra phòng trưng bày tại góc đường Nguyễn hữu Cảnh và Nguyễn Thái Học (công trường Sông Phố) hoặc xuất cảng qua pháp, Mỹ và nhiều nước khác. Gốm mỹ nghệ Biên Hoà được nhiều nơi trên thế giới ưa chuộng, nhờ sắc thái men giản dị, trầm lắng, đậm nét cổ kín phương Đông
Năm 1944, ông bà Balick về Pháp…. Biến cố 1945 xảy ra, ông Võ Kim Đôi, giáo viên của trường, lên làm hiệu trưởng. Hợp Tác Xã Gốm tan rã, nhưng sau đó không lâu, ông Trương văn Chỉ được cử lãnh trách nhiệm điều hành trường và chính ông Chỉ đã cố công gây dựng lại ngành gốm mỹ thuật Biên Hoà về cả hai mặt hành chánh và mỹ thuật. Ngày 10-10-1946, Ông Chỉ được chính phủ Pháp trao tặng “Huy chương hạng nhì bằng bạc”
          Năm 1948, ông bà Balick trở lại Việt Nam, tiếp tục các vai trò trước đây và đến năm 1950, ông bà Balick cùng đứa con gái, rời ngôi nhà (đối diện trường Mỹ Nghệ), kế cận Bót Cảnh Sát, sau nầy là Ty Hiến Binh Biên Hoà, trở về Pháp, trong niềm thương mến và biết ơn sâu xa của hầu hết ban giám hiệu của trường Mỹ Nghệ và tất cả thợ thuyền của Hợp Tác Xã Gốm Mỹ Thuật Biên Hoà.


          Sau khi ông bà Balick về Pháp, ông Pochont được cử làm Hiệu Trưởng Trường Mỹ Nghệ và đến ở tại ngôi nhà của hai vợ chồng ông bà Balick từng ở nói trên, nhưng sau đó không lâu ông Pochont cũng trở về Pháp. Ông Đặng Văn Quới còn gọi là ông Quản Quới (ông thân sinh của ông Đặng Văn Lâu, chủ nhà nhiếp ảnh “Studio d’Art” và Mỹ Dung khoảng ngang nhà hàng Hạnh Phước đường Nguyễn Hữu Cảnh Biên Hoà), làm hiệu trưởng và ông Bạch Đường Khúc tự Trinh, còn gọi là thầy đội Trinh, nhạc phụ của cựu Thiếu Tá QL/VNCH Nguyễn Văn Tài cũng là nhà văn Hoàng Anh Tài, hiện định cư tại Pháp) làm phó hiệu trưởng và khoảng chừng một năm sau đó ông Trần Văn Ơn được cử thay thế làm hiệu trưởng.
         
          Đến năm 1955, ông Trần Văn Ơn về hưu, Ông Trương văn Chỉ (thân phụ của bà Trương Thị Ngọc Hương, hiện định cư tại Thuỵ Sĩ) được cử thay thế…
          Ngày 7-5-1955, Bộ Giáo Dục xếp các trường Mỹ Thuật Gia Định, trường Mỹ Nghệ Thực hành Biên Hoà và trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một vào loại trường có xưởng kỹ nghệ đặc biệt và kể từ ngày 20-9-1955 học sinh muốn vào trường nầy phải có bằng Tiểu Học và phải qua một kỳ thi.
          Năm 1956, trường Mỹ Nghệ Thực Hành Biên Hoà được đặt trực thuộc Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học vụ - Bộ Giáo Dục Sài Gòn; Ông Nguyễn văn Thâu, từng tốt nghiệp truờng Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội,  được bổ nhiệm chức vụ Hiệu Trưởng thay thế Ông Trương Văn Chỉ. Ông Chỉ ra đứng lớp giảng dạy…
          Năm 1957, trường đặt trực thuộc Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học Vụ về cả hai phương diện chuyên môn và hành chánh, không qua  hệ thống Ty Học Chánh điạ phương.
          Năm 1958, ông Đan Hoài Ngọc, tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội, giảng viên truờng cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, về làm hiệu trưởng thay thế ông Nguyễn Văn Thâu.
          Nhằm phát triễn ngành Gốm Mỹ Thuật trong nước, năm 1960, Chánh Phủ Sài Gòn rước các chuyên viên gốm Nhật Bản, ông Ishizuka  và ông Mizuno đến cố vấn  cho Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà về vấn đề biến chế men, xương đất và kỹ thuật xây lò, đồng thời gởi người đi du học:
          -Ông Đặng Nhựt Thăng được cử đi tu nghiệp ở Tây Đức từ 1-8-1960 đến 28-2-1961 về men gốm
-Ông Đặng cẩm Hồng được Nha Học Vụ cử giữ chức vụ Giám Thị và  sau đó được cử đi tu nghiệp tại Vierzon Pháp từ ngày 11-9-1962- 30-6-1963 về men gốm.
-Ông Lê Bá Đáng được cử đi tu nghiệp ở Nagoya - Nhật Bản từ 4-10-1962, về lò, xương đất và men.
   
Sản phẩm gốm và đúc đồng của trường Mỹ Nghệ Biên Hoà được đưa qua triễn lãm ở Pháp vào năm 1922 và được nổi tiếng từ đó. Nhiều nước trên thế giới mời tham dự triễn lãm quốc tế ở Pháp vào những năm 1925, 1933; 1938 tại Saint Denis (Reunion-thuộc Pháp); tại Batavia (Nam Dương) năm 1934; tại Hà Nội năm 1938; tại Nayoga (Nhật Bản) năm 1937;  tại Băng Kok Thái Lan năm 1955; tại Phnompênh (Campuchia) năm 1956; tại Mỹ năm 1958…. và Việt Nam luôn được nhận huy chương vàng  và bằng danh dự …về đồ đồng gồm có : cúp, gạt tàn, cái chận giấy, bình và tượng nhỏ làm bằng đồng và nhiều đồ đồng mỹ thuật khác….về gốm gồm có các loại bình trang trí, gốm treo tường , bình đựng nước, và nhiều mặt hàng sành sứ khác…

 Nét đặc biệt của gốm mỹ nghệ Biên Hoà là men tự chế. Lúc đầu, khi mới nhận Ban Gốm, Bà Marie Balick cho áp dụng nước men Tây phương, loại men Pháp, nhưng bà thấy loại men nầy không phù hợp với gốm Đông phương, nên bà đã lập một nhóm nghiên cứu loại men mới với những nguyên liệu có sẵn ở Việt Nam, như đá trắng An Giang, vôi Càn Long, tro rôm, tro củi, và thuỷ tinh, đá ông mạt đồng và bột màu cobalt để tạo màu lên men, màu men đặc biệt của gốm Biên Hoà, màu xanh đồng (vert de Bienhoa), còn đất thì lấy từ Sông Bé (Bình Duơng), và bà Balick đã thành công là đã tạo cho gốm Biên Hoà có một loại men độc đáo.
Đến năm 1960, Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà lại tiến thêm một bước nữa khá quan trọng, là cho áp dụng đổ khuôn theo sự hướng dẫn của của các cố vấn người Nhật Bản, giúp cho mức độ sản xuất tăng nhanh….đặc biệt là đổ khuôn các tượng ….
 Và cũng từ thập niên 50, một số thợ của Hợp Tác Xã Gốm Mỹ Thuật có điều kiện tài chánh và địa điểm thuân tiện, lần lượt tách ra, mở xưởng gốm mỹ thuật riêng, như anh Đạo mở xưởng ở Tân Vạn, anh Đỗ Nam và anh Lê Bá Đáng hợp tác mở xưởng ở Hoá An với bảng hiệu “Gốm ĐÔNA”, sau nầy khoảng năm 1974 anh Lê Bá Đáng mở thêm một xưởng gốm mỹ thuật tại xã Tân Đông Hiệp (quận Dĩ An), riêng tôi và anh Trần Văn Là tự Út Bùi chung sức, mướn căn nhà của chú Ba Phu ở Hoá An mở xưởng làm gốm mỹ nghệ, nhỏ thôi, vào năm 1973, sản phẩm xuất xưởng bán rất chạy, có người thu gom xuất cảng ra nước ngoài, tôi bắt đầu thu lợi nhuận, nhưng chẳng được bao lâu…..chế độ miền Nam sụp đổ. 
Thời gian bước vào nghề khai thác ngành gốm mỹ thuật, tôi cảm thấy vô cùng thích thú, làm chơi mà ăn thiệt. Thỉnh thoảng tôi theo anh Út Bùi và anh Tùng (tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định) xuống Sai Gòn chơi, nhiều khi gần cạn tiền. anh Tùng bèn vào gặp bà Năm có cửa hàng may áo dài trong khu thương xá TAX, hỏi mượn chút đỉnh, bà Năm cho mượn ngay, đồng thời trao cho mấy sắp vải để vẽ hình bông hoa hoặc rồng phượng với lời căn dặn, vẽ gấp, giao hàng vào ngày mai ….thế là chúng tôi lại có thêm tiền ra quán La Pagode tại góc đường Tự Do-Lê Thánh Tôn, ngồi uống cà phê, ngắm cảnh “dập dìu tài tử giai nhân” trên đường phố cuối tuần; đến chiều tối chúng tôi trở về Biên Hoà. Tôi cứ nhắc chừng việc vẽ mẫu áo dài cho bà Năm, vì sợ vẽ không kịp để giao hàng đúng hẹn, nhưng không ngờ chỉ trong một giờ đồng hồ về khuya, anh Tùng vẽ xong mấy xấp vải áo dài với bộ mẫu mã và đồ nghề có sẵn, với hình hoa thú, màu sắc trang nhã linh động…. và một kỷ niệm khác của tôi với anh Tùng và anh Út Bùi là khi tôi mở quán phở Thanh Sơn tại dãy phố lầu ngang Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Khu 3, gần Máy Cưa, quốc lộ 15(BH), được hai anh Tùng và Út vẽ tặng cho tôi bức tranh khổ 1,5m x 3m diễn tả cảnh sông núi đêm trăng tuyệt đẹp; tôi còn rất nhiều kỷ niệm đối với anh Út Bùi, một con người nghệ sĩ chân chính, đa tài, trường chay, đạo hạnh… chùa nào cần đắp tượng Phật hoặc vẽ hình Phật trên tường là anh sẵn sàng đến làm công quả….Tôi rất thương mến anh Út Bùi, tôi cũng thường đi theo anh vào các cụm rừng tìm các rễ cây với hình dáng thiên nhiên lạ kỳ, đem về trau chuốt thành một tác phẩm nghệ thuật, như rễ cây cẩm lai hoặc gõ, làm thành chân bàn kính thật tuyệt làm sao, hoặc đi với anh vào các nơi bán gỗ phế liệu, mua những tấm gỗ thông, đem về, cưa đúng kích thước, kế tiếp, đốt cho cháy sém, rồi lấy bàn chải sắt chà cho bớt phần cháy, xong dùng sơn màu chấm phá vài nét, treo lên  tường thành một bức tranh đầy nghệ thuật….thế là có người tìm đến hỏi mua…. hoặc nhặt đá sạn và vài thứ vật dụng phế thải bên đường dùng trang trí cho các hòn non bộ, làm tăng giá trị đến không ngờ. Bất cứ vật gì, qua tay của người nghệ sĩ vẽ và nắn, cũng có thể trở thành những món quà quí giá và ý nghĩa…..bức hoạ của anh Út Bùi mà tôi đắc ý nhất và còn nhớ mãi đến bây giờ là bức tranh mâm ngũ quả bên cạnh lá cờ Phật giáo, bị rách một chỗ.



Sau đây là vài dữ kiện liên quan đến Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà và những người thợ xuất thân từ trường nầy.

Nhiều người cho rằng: “ gốm Cây Mai, gần chùa Cây Mai hoặc khu Lò Gốm, phía sau hãng rượu Bình Tây-Chợ Lớn Mới bây giờ thuộc Quận 6- Sài Gòn), gốm Lái Thiêu (Bình Dương) và gốm Biên Hoà đã tạo nên một phong cách gốm Nam Bộ”, nhưng thực tế chỉ đúng một phần, đó là phần gốm gia dụng… gốm Cây Mai chuyên sản xuất nồi, siêu, trách, trả…; gốm Lái Thiêu chuyên làm chén, bát, đĩa, muỗng…riêng gốm Biên Hoà làm lu, khạp, ảng cả chén bát (lò lu Trần Lâm ở xã Hoá An, lò lu của thân mẫu anh Lưu văn Cải ở Tân Vạn….) là những sản phẩm gốm bình dân nhằm đáp ứng cho đời sống hằng ngày….Còn gốm mỹ thuật, gốm cao cấp mang tính nghệ thuật và trang trí, đầu tiên ở Nam Bộ chỉ có ở Biên Hoà. Theo sự sắp xếp của người Pháp, trường Mỹ Thuật Gia Định chuyên vẽ và trang trí, trường Mỹ Nghệ Biên Hoà chuyên gốm mỹ thuật và đúc đồng, trường Mỹ Nghệ Thủ Dầu Một (Bình Dương) chuyên về điêu khắc trên gỗ….Nên nói về gốm Mỹ Thuật thì chỉ có Biên Hoà thôi, bằng chứng trong những lần triễn lãm trong nước cũng như khắp nơi trên thế giới chỉ có sản phẩm mỹ nghệ Biên Hoà trưng bày và tuyệt nhiên không có gốm “Cây Mai” hay “Lái Thiêu” tham dự.
Còn nói gốm Biên Hoà ảnh hưởng gốm Cây Mai lại càng không có lý, vì ngành gốm gia dụng đã có mặt tại Cù Lao Phố Biên Hoà từ lâu, theo dòng người di dân từ đất Quảng Miền Trung Việt Nam và đoàn người Hoa do Tướng Trần Thượng Xuyên hướng dẫn lánh nạn nội chiến từ nước Tàu đến vùng đất Biên Hoà, còn làng gốm Cây Mai được ghi nhận xuất hiện từ sau năm 1920, sau khi Cù Lao Phố (BH) bị chiến tranh tàn phá và một số đông người minh hương rủ nhau đến định cư tại vùng chợ Lớn Mới, lập ra.….
 Những Sự Kiện Liên Quan Trường Mỹ Thuật Biên Hoà 

Sản phẩm gốm mỹ thuật Biên Hoà rất đa dạng và phong phú với góc độ nghệ thuật cao, ngoài các hũ, bình, đĩa, chén…với chất men trắng sữa hoặc trắng ngà thanh thoát ….hoặc các tượng Phật hoặc hình tượng tranh Tứ Quý, Tứ Bình, Tứ Thời, Bát Tiên hoặc tranh Dân Gian với chất men xanh lục đồng, màu cổ kính, trầm lắng….qua các tay nghề điêu luyện  của các bậc thầy ông Trần Văn Ơn, Lê Văn Mậu, Nguyễn Văn Hai….thuộc thế hệ thứ nhất của trường và các anh Trần Văn Là tự Út Bùi, anh Đỗ Nam, anh Lê Bá Đáng…thuộc thế hệ thứ hai, luôn có sáng kiến tạo mẫu mã và biến chế màu men thích hợp cho từng loại sản phẩm như đôn voi, đôn tròn, chậu hoa, tượng….và đã từng ào ạt xuất cảng ra nước ngoài  vào thập niên 60 và đầu 70.

Tôi đã từng hãnh diện về Gốm Mỹ Nghệ Biên Hoà, nhưng theo ông Vương Hồng Sển, nhà sưu tầm và say mê đồ cổ, nhận xét vào năm 1972: “ hiện nay trong xứ có một trường làm đồ gốm ở Biên Hoà và kể luôn ở Đà Lạt và ở Lái Thiêu (Bình Dương), Thị nghè và Biên Hoà  có trên 40 lò sản xuất đồ gốm, đồ sành, có lò Thành Lễ (Bình Dương) từng gửi đồ chế tạo bán ra ngoại quốc, nhưng nói về phẩm chất thì đồ gốm đồ sành ngày nay còn thua đồ thời Pháp thuộc của trường Mỹ Nghệ Biên Hoà do Tây điều khiển”. Sau khi đọc qua đoạn nhận xét vừa kể, tôi đã không sao tránh được một thoáng buồn … nhưng làm sao hơn,  đất nước Việt Nam đang tình trạng chiến tranh, một số thầy, thợ của trường Mỹ Nghệ Biên Hoà phải nhập ngũ theo lệnh động viên của Bộ Quốc Phòng … thầy Nguyễn Văn Thông (sĩ quan tài vụ/ ngành Bảo An Đoàn) và các tay thợ lành nghề như Trần Ngọc Ẩn (Không Quân), Trần Văn Là (Tâm Lý Chiến), Nguyễn Văn Bạch(Phòng Đồ Bản Bộ Tổng Tham mưu KBC4002 đường Trần hưng Đạo-Sàigòn), anh Hai Còn, phục vụ Trường Đại Học Quân Sự, sau biệt phái qua Thông Tấn Xã Báo Chí….
Chú Sáu Thế (Nguyễn Văn Thế) từng xuất thân trường Mỹ Nghệ Biên Hoà, sau khi học qua các trường Mỹ Thuật Gia Định, rồi Hà Nội, và sau cùng tốt nghiệp Kiến Trúc Sư bên Pháp, về làm việc cho Văn Phòng Cố vấn Mỹ Thuật tại Phủ Tổng Thống thời đệ Nhất Cộng Hoà, đặt tại số 110 đường Nguyễn Du  Sài Gòn, có xin biệt phái một số cựu học viên trường Mỹ nghệ Biên Hoà về đây, lo việc nghiên cứu quân phục, sắc phục, huy chương phù hiệu…anh Trần Ngọc Ẩn (anh hai của cô giáo Trần thị Giếng) phụ trách vẽ phù hiệu, sắc phục ngành Không Quân, anh Xuân phụ trách vẽ phù hiệu sắc phục ngành Bộ Binh, anh Nguyễn văn Bạch phụ trách vẽ phù hiệu, sắc phục ngành Cảnh Sát thời VNCH và một số người khác  như anh Nguyễn văn Phép, Trần văn Lên, anh Lực…..phụ trách tạc tượng Đức Trần Hưng Đạo ở bến Bạch Đằng Sài Gòn 


Có vài bài báo viết rằng: “Ở miền Bắc có ba trung tâm gốm cổ truyền Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh và  ở miền Nam có hai trung tâm Biên Hoà và Bình Dương…. Gốm Biên Hoà không có tay nghề cao bằng gốm Bát Tràng và Thổ Hà….gốm Biên Hoà mang màu sắc và vẻ đẹp phóng túng…không như gốm Bát Tràng và Thổ Hà mang tính ước lệ cổ điển…do đó, uy tính của ngành gốm Biên Hoà được nâng cao trên thị trường Quốc Tế….” Từ phê bình đó, chúng ta thấy ngành gốm Biên Hoà đã có một bước tiến vượt bậc, có thể mô tả là con chim đầu đàn của ngành gốm Mỹ Thuật trong cả nước.

Gốm mỹ thuật Biên Hoà được nổi tiếng là nhờ sự truyền đạt nghệ thuật của người Pháp về màu sắc, nước men và kể cả sản xuất, mà mốc thời gian được kể từ năm 1923, khi hai vợ chồng ông Robert Balick được bổ nhiệm làm hiệu trưởng và hiệu phó trường Mỹ nghệ Biên Hoà….
Người dân xứ Bưởi rất mến mộ hai vợ chồng ông Balick và để tỏ lòng biết ơn, đồng hương Biên Hoà ở Paris thỉnh thoảng đến viếng thăm ông bà Balick ở miền Nam nước Pháp, tôi tình cờ được biết, có một lần, phu nhân của Bác sĩ Tứ (từng làm việc tại Biên Hoà) đến thăm và tặng cho bà Balick một chai nước mắm Phú Quốc, bà Balick rất mừng rỡ; bà tức khắc mở nắp, rót một giọt nước mắm lên lòng bàn tay rồi ngửi một cách say sưa như người sành điệu, đã từng thưởng thức hương vị tuyệt vời nầy….

Tại tỉnh Biên Hoà (nay là tỉnh Đồng nai) hiện nay có hàng trăm xưởng hoặc công ty sản xuất gốm sứ mỹ thuật, như Gốm Thái Dương, Minh Đức, Việt Thành (xã Tân Hạnh), Đồng Thành, Đồng Tâm, Long Phú, Hoàn Thành, Thành Phát, Hồng Đức….nhiều xưởng được hô hào trang bị lò nung bằng “ga” nhằm đảm bảo chất lượng, đã  xuất cảng đến các nước Âu, Á, Mỹ châu…và thật sự mang về một số ngoại tệ đáng kể ….nhưng bây giờ hơi khựng lại vì lý do sản phẩm không đạt yêu cầu phẩm chất và góc độ nghệ thuật... người thợ gốm vốn dĩ nghèo, lại làm việc theo quan niệm mới “đếm món lãnh tiền”, chạy đua với thời gian để đạt chỉ tiêu ẩn định, theo phong trào thi đua sản xuất, đặt nặng về số lượng hơn là phẩm chất  … khiến sản phẩm mỹ nghệ Biên Hoà kém đi phần nào giá trị, nên bị giới hạn sự thu hút của khách hàng ngoại quốc. Thật đáng tiếc thay!

Sau cuộc đổi đời năm 1975, ngành gốm mỹ thuật Biên Hoà có chiều hướng đi xuống, các chủ xưởng nhỏ buồn tình đời thế sự dẹp bỏ các cơ xưởng làm gốm, còn các chủ xưởng gốm mỹ thuật lớn còn thê lương hơn…., chánh quyền nhân dân tỉnh tịch thu, trong số những người chủ nầy tôi biết có anh Đỗ Nam chủ gốm DONA coi như mất trắng…Anh Nam tiếc của, tiếc công gầy dựng….trở nên người quẩn trí….sau cung theo con qua định cư tại Úc Đại Lợi….Có nguồn tin cho rằng anh Nam đã trở về Việt Nam làm đơn xin lại cơ sở gốm mỹ thuật DONA …. Có người nói rằng, từng thấy anh Nam rơi lệ khi nhìn thấy công trình gốm DONA của anh đã thuộc về tay người khác….Thật đáng tội nghiệp cho anh Nam, một người cả đời đam mê nghệ thuật vẽ, nắn, tạc tượng….đóng góp sản phẩm mỹ thuật làm vẻ vang cho xứ sở Biên Hoà….  

Nếu không có cuộc đổi đời vào ngày 30-4-1975, thì ngày nay mọi người Việt yêu chuộng tự do, đã có dịp chiêm ngưỡng những phù điêu, hình ảnh của những trận đánh hào hùng của Quân Lực VNCH cùng những vần thơ bất hủ diễn tả về khí phách của người lính Cộng Hoà:

An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân
hoặc:
Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em nằm xoã tóc đợi thiên thu
hoặc:
Những cánh chim bằng trong gió loạn
Dưới làn mây bạc của trời Nam
….
do một nhóm thợ lành nghề thuộc trường Mỹ Nghệ Biên Hoà, thực hiện điêu khắc chung quanh “vành khăn tang” dưới chân Nghĩa Dũng Đài tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, dưới sự hướng dẫn kỹ thuật và nghệ thuật của thầy Lê Văn Mậu.

Vài Hình Ảnh Liên Quan đến Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà 
Ban Giám hiệu Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà (Ảnh chụp khoảng 1950)
Tam cấp thứ nhất: thầy Huỳnh Văn Thọ và Trần Văn Ơn
Tam cấp thứ nhì: thầy Nhì Bạch Đường Khúc (áo dài đen), Ông bà Balick (đứng giữa), thầy Nhứt Đặng Văn Quới (bên phải)
Tam cấp phía sau: quí thầy từ trái sang phải, thầy Nguyễn Văn Thông, Đặng Cẩm Hồng, Lê Văn Mậu, Mã Phiếu, Huỳnh Quang Thường, Trương Văn Chỉ, Ung Văn Nam, Nguyễn Văn Đinh và ba nhơn viên Đặng Nhựt Thăng, Lương Văn Châu (phụ trách bán hàng), Nguyễn Thị Tình(đánh máy)   

Trần Thanh Thanh tạc tượng thầy Nguyễn Thành Phách vào năm 1961, kính tặng thầy để làm kỷ niệm.

Trường Mỹ Nghệ Biên Hoà, ngoài việc đào tạo và phục vụ nghệ thuật hội hoạ, còn có một điểm son, được nhiều người biết đến, đó truyền thống thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, rất đáng được trân quí…thể hiện trong những trường hợp có một vị thầy hoặc một đồng môn qua đời, tất cả mọi người có liên quan đến trường Mỹ Nghệ Biên Hoà đều được thông báo tề tựu, dự phần an ủi, tiễn đưa một cách trang trọng, thắm đậm tình nghĩa thầy trò…. hoặc giả trường hợp, có những học sinh giỏi nhưng vì nhà nghèo, việc không thể tiến xa hơn, các thầy sẵn sàng chung góp tiền giúp đỡ cho học sinh đó lên Sài gòn tiếp tục việc học và phát triển tài năng…. Nghĩa cử nầy đã khiến tôi vô cùng khâm phục và cảm kích viết mấy vần thơ sau đây…

NÉT ĐAN THANH
                         Kính tặng quí Thầy và quí anh xuất
                                              thân từ trường Mỹ Nghệ Biên Hoà.

     Đẹp từ pho tượng chân phương
     Đẹp qua thuỷ mặc đẹp tràn núi sông
     Đôi tay…với cả tâm hồn
     Nắn bình tạo mẫu đường cong tuyệt vời
     Sắc pha… điểm nét gợi mời
     Phù điêu ẩn hiện dáng người trong tranh
     Những câu thơ rất hữu tình
     Kèm theo hoạ phẩm lung linh ý đời
Giai nhân e thẹn mỉm cười
Vườn hoa trăm sắc vẽ vời bướm ong
Ai về …qua bến sông Đồng
Chở dùm tôi chút màu xuân đất trời
Ghé Trường Mỹ Nghệ quê tôi
Ai còn? Ai mất? Cuộc đời ra sao?
Tượng, bình, mẫu mã thế nào?
Có còn vang tiếng… tự hào như xưa?
Có còn giữ nghĩa thầy trò?
Thời gian dù có phôi pha kiếp người.
                                    TN

Tôi viết bài viết nầy với tư cách một người xứ sở Biên Hoà, từng kính phục tài năng vẽ tranh, điêu khắc, đúc đồng của quí thầy, quí bậc đàn anh cùng bạn bè mà tôi đã có dịp nêu ra trên đây, với cả tấm lòng trìu mến và vinh danh…Tôi đã cố gắng sưu tầm mọi dữ kiện liên quan đến Trường Mỹ Nghệ và Gốm Mỹ Thuật Biên Hoà, để trình bày cùng quí đồng hương với niềm hãnh diện, đồng thời để cho các   em cháu, thế hệ sau nầy có dịp biết qua, nhưng sự tìm kiếm của tôi có phần giới hạn, bởi hoàn cảnh và thời gian xa xứ gần hai mươi năm, trải qua bao nhiêu vật đổi sao dời…Nếu quí đồng hương có phát hiện sự sơ sót nào , tôi kính xin được niệm tình tha thứ và xin bổ túc cho. Mong thay.
                                                                Nguyễn Kim Lộc
                                                                 (Chicago ngày 10-10-10)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét