Sau hơn mười năm xa
cách, mùa Hè năm nay (2008) tôi tình cờ gặp lại nhà thơ Hàn Bích Nguyệt, nhân
chuyến ông từ Việt Nam qua Mỹ, thăm vợ
con của ông tại vùng Orange County/ California và tôi cũng có dịp đến Cali vào
khoảng thời gian nầy…..Anh em tay bắt mặt mừng, niềm vui khó tả và tôi ở chơi
với ông trên hai tuần lễ; trao đổi đủ thứ chuyện liên quan đến đời sống xã hội
và văn học, nhất là chuyện tâm tình của người ở quê nhà và kẻ đang sống nơi hải
ngoại tha hương trong ý thơ của Thế Nhân “Hai mái tóc âm thầm bạc trắng - Tình
tương thân sầu lắng tháng ngày.”
Thể là hai anh em tha hồ tâm sự và trong
dịp nầy, tôi có dịp học hỏi ở Hàn Bích Nguyệt khá nhiều về thơ văn. Tôi biết
ông làm thơ rất sớm, khoảng thời gian còn là học sinh trường Mỹ Nghệ Biên Hòa,
thỉnh thoảng ông làm thơ, gởi đăng trên tuần báo Nước Nam hoặc tờ nhật báo
Trắng Đen do ký giả kỳ cựu Việt Định Phương làm chủ nhiệm kiêm chủ bút vào
khoảng thập niên 50.
Trong các thể thơ,
ông đam mê Đường thi một cách lạ thường. Ông trình bày về thú làm những bài thơ
Đường của riêng ông, ông viết nháp trên từng tấm bảng nhỏ, dựng ở những nơi trống
trải, dễ thấy nhất ở trong nhà, để ông có dịp đọc đi đọc lại, sửa chữa, cân
nhắc, đổi ý, đổi từ…cho đến khi nào bài thơ đươc như ý rồi, ông chép vào tập và
cho tấm bảng đó được lui xuống, nhường cho bài thơ nháp khác được dựng lên… Ông
làm thơ rất nhiều, nhưng chưa tự mình xuất bản một tập thơ nào, chỉ có thơ đăng
chung với nhiều tác giả trong các tập “Trăng Rằm”, “Nắng Mai”, Tuyển Tập Đường
Thi”…
Ông chơi thơ tài
tử, làm thơ đối với ông là một thích thú, say mê vần điệu thi ca, nghệ thuật và
cũng để dàn trải nỗi lòng của mình trong những câu thơ, ông thích nhất thể thơ
Đường, vì từ ngữ ít mà ý tứ rạt rào, ngoài ra, ông có ý lồng các câu thơ của chính
ông vào các họa phẩm của ông với những nét chữ nguệch ngoạc phóng khoáng… thuở
chưa có trường phái thư họa hay thư pháp, một lối phóng bút riêng tư mang tánh
nghệ thuật, cho bức tranh lung linh màu sắc, ẩn tàng ý nghĩa, thêm phần thi vị.
Ông chê tôi làm thơ
Đường không nghiêm túc, không giữ đúng niêm luật bằng trắc, buông thả trong vần
điệu, dễ dãi với đối ngẫu….không giữ được cốt cách của một bài Đường thi, chỉ
có tám câu, mỗi câu bảy chữ, tất cả 56 chữ, nhưng phải gói trọn tâm tư tình cảm
cùng tất cả những gì tác giả muốn gửi gắm, hoặc diễn đạt dù tả cảnh hay tả
tình….
Đường thi quả thật
rất khó viết, bị ràng buộc đủ thứ luật lệ, một bài đường thi, ngoài việc giữ
đúng niêm luật, còn phải đối ý, đối từ ở cặp trạng và cặp luận (bốn câu giữa
của bài Đường Thi), và phải giữ độc vận, có nghĩa là các vần cuối câu thơ 1, 2,
4, 6, và 8 phải giống nhau; không được dùng vần khác nhau, gọi là lạc vận; hoặc
dùng vần trài trại, gọi là cưỡng vận; lạc vận và cưỡng vận đều nên tránh. Ngoài
ra, còn phần niêm luật, chữ thứ nhì của câu thứ hai và thứ ba phải cùng thanh
bằng hoặc thanh trắc; câu thứ tư và câu thứ năm, câu thứ sáu và câu thứ bảy
cũng như câu thứ nhất và câu thứ tám phải cùng thanh điệu ở chữ thứ nhì.
Ngoài ra, người làm
thơ Đường phải nghiêm túc tuân theo luật bằng trắc, các chữ ở vị trí thứ nhì,
thứ tư và thứ sáu trong câu thơ, bắt buộc phải đúng, trắc là trắc, bằng là bằng
chứ không thể lầm lẫn bằng qua trắc hoặc trắc qua bằng được, do luật “nhị, tứ,
lục, phân minh”, còn các chữ ở vị trí khác, có thể châm chước, như chữ thứ
nhất, thứ ba và thứ năm trong câu (vần trắc hay vần bằng cũng được), do
luật “nhất, tam, ngũ, bất luận”, một thể
thơ có bố cục rất chặt chẽ, luật lệ rất phân minh và bốn câu giữa, tức cặp
trạng (câu thứ ba và thứ tư) và cặp luận( câu thứ 5 và thứ 6), bắt buộc phải đối nhau, đối ý, đối từ (danh từ đối danh từ, tĩnh từ đối tĩnh từ), chữ kép
đối chữ kép, chữ đơn đối chữ đơn và tránh điệp vận, tránh trùng dấu giọng 3 chữ
cuối của câu thơ, tránh dùng vần cập cổ ở ba chữ cuối câu… Và muốn biết bài thơ
thuộc luật bằng hay trắc, ta chi cần nhìn vào chữ thứ nhì và chữ thứ sáu của
câu thứ nhất, nếu cả hai chữ đều là vần trắc thì bài thơ “luật trắc”, và là vần
bằng thì là “luật bằng”. Ngoài ra trong thơ Đường còn có thể Thất Ngôn Tứ Tuyệt
hoặc Ngũ ngôn tứ tuyệt, gọi là Đường thi biến thể.
Ông cho tôi một bài
học thật là đích đáng, ông nói có nhiều người làm thơ và cố làm cho thật nhiều,
làm thơ như cái máy sản xuất thơ, ghép chữ qua lại để thành một bài thơ và nếu
không giống thể thơ nào, thì gán cho nó là thơ mới hoặc thơ tư do. Thơ tự do, có
bài cũng hay lắm, nội dung rất sâu sắc, nhưng thật sự mà nói, phần lớn các bài thơ
tự do, đọc lên, ý tứ mơ hồ, lời thơ không mạch lạc, thiếu nhạc tính, không hấp
dẫn người đọc và khiến người nghe không hiểu tác giả muốn nói gì. Nói đến thơ là phải nói đến luật thơ và vần
điệu…Thơ mà thiếu vắng hai yếu tố vừa kể, còn gọi là thơ nữa hay sao? Ông
nói, thậm chí có nhiều người làm thơ nhưng không nắm vững văn phạm, ngữ pháp,
cả đến điều căn bản nhất trong nghệ thuật làm thơ là các thanh điệu bằng và
trắc. Thanh bằng gồm tiếng có dấu huyền và không dấu; thanh trắc gồm các tiếng
có dấu sắc, hỏi, ngã và nặng, mà trong lãnh vực thơ có đến tám thanh và mỗi thanh
có tên riêng
1. Phù- bình thanh
gồm những tiếng Không dấu
2. Trầm- bình thanh
gồm các tiếng có dấu huyền(`)
3. Phù-thượng thanh
gồm những tiếng có dấu ngã(~)
4. Trầm-thượng
thanh gồm những tiếng có dấu hỏi(?)
5. Phù-khứ thanh gồm
những tiếng có dấu sắc (’ )
6. Trầm-khứ thanh gồm
những tiếng có dấu nặng (.)
7. Phù-nhập thanh
gồm những tiếng có dấu sắc mà đằng sau
có các chữ c, ch, p, t.
8. Trầm-nhập thanh
gồm những tiếng có dấu nặng(.) mà đằng sau có c, ch, p, t.
Trong ý hướng giúp
tôi làm thơ Đường, nhà thơ Hàn Bích Nguyệt dùng bài thơ sau đây giảng giải và
phân tách cho tôi hiểu.
Thơ Đường
Phá đề dẫn nhập chuyện gần xa
Kế đó thừa đề phải nói ra
Trạng kể căn nguyên cho khúc triết
Luận bàn mọi lẽ chẳng sai ngoa
Đối nhau từng cặp
không trùng ý
Gắn bó hai câu phải
xứng hòa
Đoạn kết vài lời cho hợp lý
Thành bài phong hóa
dạy người ta.
Rồi ông nói tiếp, bài thơ Đường hay Đường
Thi gồm có bốn phần chánh yếu: Đề, Thực hoặc Trạng, Luận, và Kết. Đề gồm câu 1(Phá đề) và câu hai (Thừa đề);Trạng
gồm hai câu 3 và 4 (phải đối nhau); Luận gồm câu 5 và 6 (phải đối nhau); Kết
gồm câu 7 và 8.
Hàn Bích Nguyệt nói
rằng, bây giờ, người làm thơ Đường cũng như người thưởng ngoạn nghệ thuật thơ
Đường, hiếm hoi lắm vì đòi hỏi trình độ Hán Văn để có thể lĩnh hội được trọn vẹn
ý nghĩa sâu sắc của bài thơ, nhất là những bài thơ cổ của các đại thi hào Trung
Hoa ngày xưa, bài Đường luật thất ngôn bát cú, chuẩn mực 56 chữ, rồi ông trong
niềm say sưa đọc cho tôi nghe một loạt. …
Bài Hoàng Hạc Lâu
(thể thất ngôn bát cú)
Tích nhân dĩ thừa
hoàng hạc khứ
Thử địa không du
Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ
bất phục phản
Bạch vân thiên tải
không du du
Tịnh xuyên lịch
lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê
Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan
hà xứ thị
Yên ba giang thượng
sử nhân sầu
(Thôi Hiệu)
Dịch: Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi
đâu
Mà đây Hoàng hạc riêng
lầu còn trơ
Hạc hoàng đi mất từ
xưa
Ngàn năm mây trắng
bây giờ còn bay
Hán Dương sông lạnh
cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh
đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng
hoàng hôn
Trên sông khói sóng
cho buồn lòng ai!
(Tản Đà)
Ông nói, tìm hiểu
nghĩa một bài thơ chữ Hán đã khó, dịch một bài thơ chữ Hán ra tiếng Việt lại
khó hơn, vì cách viết chữ Hán không có sự phân biệt danh từ chung và danh từ
riêng, và cũng không có dạng chữ viết Hoa và chữ không viết Hoa để phân biệt,
do đó, dịch thuật rất khó khăn, nhiều khi lệch nghĩa hoặc trái hẳn ý. Ông dẫn
chứng câu chuyện Vương An Thạch (bên Tàu) khi chưa làm Tể tướng, đi chấm thi
Hương ở Hàng Châu, ông đã đánh rớt oan
uổng một thí sinh, vì trong bài phú của thí sinh nầy có câu:
Minh nguyệt sơn đầu
khiếu
Hoàng khuyển ngọa
hoa tâm
Ông nghĩ rằng làm
sao có thể “trăng sáng gáy đầu núi” và làm sao “chó vàng nằm trong lòng hoa”.
Ông gạt đít hai câu thơ đó và sửa lại…
Minh nguyệt sơn đầu
chiếu
Hoàng khuyển ngọa
hoa âm
Ông nghĩ rằng “trăng
sáng chiếu đầu núi” và “chó vàng nằm dưới bóng hoa” thì mới có lý chứ. Nhưng vài năm sau, Vương An Thạch đang làm Tể
Tướng, vô tình hiểu được nơi vùng Hàng Châu có một loài chim tên là “Minh
Nguyệt” và có một loài sâu tên là “Hoàng Khuyển”. Vương An Thạch tỏ rõ sự ngậm ngùi
hối tiếc về câu chuyện chấm thi cách mấy năm qua.
Đường thi quả là một thể thơ rất khó viết.
Cảnh đời dù hoa mộng thế nào, tình ý dù
rạt rào đến đâu cũng chỉ phải gói gọn, cô đọng trong 56 chữ hạn định. Nhờ Đường
Thi mà có nhiều thi sĩ nổi danh thiên cổ. Lý Bạch “thấy dòng sông chảy bên trời” (Duy
kiến Trường Giang thiên tế lưu), Thôi Hiệu bị khói sóng nơi lầu Hoàng Hạc làm
cho buồn bã (Yên ba giang thượng sử nhân sầu), hoặc Đỗ Mục đau lòng trước cảnh
chia ly, nhỏ lệ thay người đến sáng (Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt, Thế nhân
thùy lệ đáo thiên minh).
Nhiều thi sĩ cho
rằng bài thơ Đường 56 chữ hãy còn dài, nên đưa ra thể thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt,
chỉ 28 chữ thôi, nhưng vẫn cô đọng được ý bài thơ một cách tuyệt vời…
Bài Lương Châu Từ
(thể thất ngôn tứ tuyệt)
Bồ đào mỹ tửu dạ quang
bôi
Dục ẩm tì bà mã
thượng thôi
Túy ngọa sa trường
quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến
kỷ nhân hồi
(Vương Hàn)
Dịch: Bài hát Lương
Châu
Rượu nho kèo chén
lưu ly
Uống thì trên ngựa
tiếng tì dục thôi
Say nằm bãi cát ai
cười
Xưa nay chinh chiến
mấy ai đã về.
(Trần Trọng
Kim)
Bài Hồi Hướng Ngẫu
Thư
Thiếu tiểu ly gia,
lão đại hồi
Hương âm vô cải,
mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến
bất tương thức
Tiếu vấn: khách
tòng hà xứ lai
(Hạ Tri Chương)
Dịch: Trở Về Quê,
Ngẫu Hứng Viết
Bé đi, già mới về
nhà
Tiếng quê vẫn thế,
tóc đà rụng thưa
Trẻ con trông thấy
hững hờ
Cười đùa hỏi khách
đến từ hướng nao
(Khuyết Danh)
Thể thơ 28 chữ đã
ngắn, nhưng nhiều thi sĩ cho rằng, hãy còn dài, rồi tiến thêm một bước, rút
ngắn thêm nữa, đưa ra thể “ngũ ngôn tứ tuyệt”, chỉ dùng 20 chữ thôi mà cũng
diễn tả đủ tình- ý, mang mang một trời tâm sự …
Dịch Thủy Tống Biệt
(thể ngũ ngôn tứ tuyệt)
Thử địa biệt Yên
Đan
Tráng sĩ phát xung
quan
Tích thời nhân dĩ
một
Kim nhật thủy do
hàn
(Lạc Tân Vương)
Dịch: Chia Tay Ở Sông Dịch
Nơi đây từ biệt Yên
Đan
Máu hung dựng tóc
căm hờn lòng sôi
Người xưa chừ đã đi
rồi
Hôm nay dòng nước
còn trôi lạnh lùng.
(Trần Trọng
San(?)
Bài Xuân Oán
Đả khởi hoàng oanh
nhi
Mạc giao chi thượng
đề
Đề thời kinh thiếp
mộng
Bất đắc đảo Liêu
Tây
(Kim Xương Tự)
Bài dịch:
Đuổi dùm hộ thiếp
con oanh
Đừng cho nó ở trên
cành trêu ai
Làm kinh mộng thiếp
đang say
Thiếp không đến tận
Liêu tây cùng chàng.
(Trần Trọng
San?)
Phần trên đây là
những bài thơ chữ Hán của các đại thi hào Trung Hoa ngày xưa do Hàn Bích Nguyệt
đọc cho tôi nghe và ghi lại. Và sau đây là những bài thơ Đường luật của các thi
sĩ Việt Nam, cấu trúc luật Đường thi rất nghiêm chỉnh….ông cũng thuộc lòng và
đọc cho tôi nghe một hơi….Tôi rất phục ông, tuổi đời đã 75 rồi mà bộ nhớ còn
tốt đến như vậy.
Thăng Long Thành
Hoài Cổ
Tạo hóa gây chi
cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát
mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn
thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng
tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng
tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt
với tang thương
Nghìn năm gương cũ
soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây
luống đoạn trường.
Huyện Thanh
Quan
Khóc Ông Phủ Vĩnh
Tường
Trăm năm ông Phủ
Vĩnh Tường ơi!
Cái nợ ba sinh đã
hết rồi
Chôn chặt văn
chương ba thước đất
Tung hê hồ thỉ bốn
phương trời,
Cán cân tạo hóa rơi
đâu mất,
Miệng túi càn khôn
thắt lại rồi,
Hai bảy tháng trời
là mấy chốc?
Trăm năm ông Phủ
Vĩnh Tường ơi!
Hồ
Xuân Hương
Bạn Đến Chơi Nhà
Đã bấy lâu nay bác
tới nhà
Trẻ thời đi vắng,
chợ thời xa
Ao sâu nước cả,
khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa,
khó đuổi gà.
Cải chưa ra cây, cà
mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn,
mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách,
trầu không có,
Bác đến chơi đây ta
với ta.
Nguyễn Khuyến
Thương Vợ
Quanh năm buôn bán
ở mom sông
Nuôi đủ năm con với
một chồng
Lặn lội thân cò khi
quãng vắng
Eo sèo mặt nước
buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu
đành phận
Năm nắng mươi mưa
dám quản công.
Cha mẹ thói thời ăn
ở bạc!
Có chồng hờ hững
cũng như không !
Trần Tế Xương
Muốn Làm Thằng Cuội
Đêm thu buồn lắm
chị Hằng ơi!
Trần giới em nay
chán nữa rồi!
Cung Quế có ai ngồi
đó chửa?
Cành đa xin chị
nhắc lên chơi
Có bầu có bạn can
chi tủi,
Cùng gió cùng mây
thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm
tháng tám
Tựa nhau trông xuống
thế gian cười.
Tản Đà
Hàn Bích Nguyệt
giải thích thêm, thơ Đường, luật lệ gò bó quá, nên ít người viết, phần đông giới
trẻ bây giờ chỉ thích các thể thơ lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn, thất
ngôn trường thiên, hoặc thơ tám chữ, hoặc thơ tự do…rồi ông đọc cho tôi một bài
thơ song thất lục bát ông viết về một mối tình trên mạng, người cháu ruột của
ông tên Nguyễn Châu Tuấn đang ở Đồng Nai-Việt Nam giao duyên qua mạng lưới
Internet với một cô Việt Kiều ở Nhật, và kết quả hai “cô cậu nầy” đã nên duyên chồng vợ và đã
ăn ở với nhau có một mặt con.
Chuyện Tình Trên
Mạng
Có những ngày lang
thang trên mạng
Thuốc vàng tay tìm
bạn chưa ra
Đêm đêm độc diễn
mình ta
Chuyện tình trên
mạng mãi là cô đơn.
Bỗng bất chợt bóng
hồng kiều diễm
Gõ vào tim cách biển
trời xa
Ngỡ rằng đùa cợt bóng
hoa
Nào ngờ sự thật hóa
ra tuyệt vời.
Internet truyền qua
Nhật Bản
Kết cuộc tình lãng
mạn như mơ
Xe hoa ai kết đợi
chờ
Hai người lên mạng
lại ngồi hôn nhau.
(Hàn Bích Nguyệt)
Một đoạn trong bài
thơ tự do….có tựa “Đời Đời Bên Nhau”
Lời yêu tuôn chảy
rạt rào
Bừng lên sức sống
một thời vào yêu
Ta đưa nhau vào
mộng
Anh nhả nhạc làm
thơ
Em đan khâu thần
tượng
Cho tình đẹp như
mơ.
(Hàn Bích Nguyệt)
Và tiếp theo, trong
hồi hứng thú, ông đọc thêm cho tôi nghe hai bài thơ Đường luật của ông sau đây…
Gái Buôn Hương
Phận gái gian truân
khổ một thời
Buôn hoa rủ bướm
đến vườn chơi
Vài em lỡ bước đành
ôm hận
Mấy chị sa chân
phải trách đời
Sáng lộ thân ngà
chờ khách đến
Chiều phơi dáng
ngọc đợi quan mời
Chung vui phút chốc
vai chồng vợ
Diễn cảnh tình yêu
thấy nghẹn lời.
(Hàn Bích Nguyệt)
Ngoạn
Cảnh SAPA
Nắng reo khắp nẻo
núi sương mù
Cây cỏ thay màu đổi
áo thu
Dế gáy mời đàn nơi
tĩnh mịch
Ve ngân gọi bạn
chốn hoang vu
Trăng thanh mê cảnh
thơm lời phú
Gió mát say tình
ngát tiếng ru
Vùng đất Sa Pa
mây khỏi phủ
Hoa đào quyến rủ…bước
xuân du.
(Hàn Bích Nguyệt)
Thơ Đường xuất xứ từ
bên Tàu (Trung Hoa) từ thuở xa xưa, được chia ra thành bốn thời kỳ: Sơ Đường (618-713),
Thịnh Đường (713-766), Trung Đường (766-835), Vãn Đường(835-907), rồi lan rộng
qua Việt Nam
từ thời Bắc Thuộc.
Nhờ thơ Đường,
Trung Hoa có được nhiều thi sĩ tài ba lỗi lạc như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,
Thôi Hiệu, Lạc Tân Vương….
Nhờ thể thơ Đường,
Việt Nam có được nhiều thi sĩ lưu danh thiên cổ như Trần Tế Xương, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương…
Nét đặc biệt của thơ
Đường là cái thú làm thơ xướng họa, hai bài thơ xướng họa sau đây đã một thời gây
sôi nổi trong dư luận về quan điểm hợp tác và bất hợp tác với Pháp. Ông Tôn Thọ
Tường mượn điển tích “Giang tả cầu hôn” của Lưu Bị trong Tam Quốc Chí(Chuyện
của Tàu) để giải bày tâm sự và được ông Phan Văn Trị làm thơ họa.
Tôn Phu Nhân Qui Thục
Cật ngựa thanh gươm
vẹn chữ tòng
Ngàn năm rạng tiết
gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn
chòm mây bạc
Về Hán trao tria
mảnh má hồng
Son phấn thà cam
dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn
non sông
Ai về nhắn với Châu
Công Cẩn
Thà mất lòng anh
đặng bụng chồng.
Tôn Thọ Tường
Xuất Giá Tòng Phu
Cài trăm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi đông
Ngút tỏa đồi Ngô un sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc ngang trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi! Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
Phan Văn
Trị
Hàn Bích Nguyệt nói, muốn trở thành một
thi sĩ dù là thi sĩ nửa mùa, điều kiện tối thiểu là phải có niềm đam mê thơ, từ
niềm đam mê nầy tạo người ta có thói quen tìm đọc và học thuộc lòng những trang
thơ đẹp, những bài thơ hay hoặc những vần thơ bất hủ…. cứ như vậy từ tháng nầy
qua năm nọ, đến một lúc nào đó “mình” trở thành một nhà thơ lúc nào không biết,
rồi ông thách tôi, cứ thử đi….Rồi sau cùng, ông nói phần trên đây chỉ là gây ý
niệm, cần đọc thêm tài liệu luật bằng vần bằng, luật bằng vần trắc hoặc luật trắc
vần bằng…..để có thể hạ bút nhẹ nhàng … và có được một bài thơ Đường chuẩn mực.
Tôi viết bài nầy thay lời cám ơn nhà thơ
Hàn Bích Nguyệt đã gây cho tôi niềm hứng thú với thể thơ Đường Luật, giúp tôi
lãnh hội một cách sâu xa về thể thơ nầy và tôi xin mạo muội kết thúc bài viết
bằng bài thơ sau đây.
Đường Thi Xướng Họa
Thích thú làm sao những điệu vần!
Bài thơ Đường Luật trải màu xuân
Ẩn tàng thi vị hoa muôn sắc
Hàm chứa văn chương nghĩa tuyệt trần
Đối ý đối từ giàu tinh luyện
Giữ niêm giữ vận đạt cân phân
Tám câu bảy chữ khuôn thơ đẹp
Xướng họa giao tình….kết mối thân.
*Hàn Bích Nguyệt là
bút hiệu của ông Nguyễn Văn Bạch, sanh năm 1934 tại Bình Trước Biên Hòa, cựu
cầu thủ mang số 10 của đội túc cầu Biên Hùng-Biên Hòa, vang tiếng ngày xưa.
Nguyễn
Kim Lộc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét