CHÚT DUYÊN VĂN
NGHỆ VỚI HỌC GIẢ GIẢN CHI
Tuần vừa qua, nhân
lúc trà dư tửu hậu, tôi và vài ba người bạn lạm bàn chuyện văn chương, một
người bạn của tôi đề cập đến nhà văn Lỗ Tấn, một nhà văn viết truyện ngắn xuất
sắc nhất của nền văn học Trung Quốc, tiêu biểu cho trường phái văn chương hiện
thực, từng lãnh đạo phong trào văn học cách mạng, từng giúp đỡ những người viết
văn trẻ tuổi và trở thành người thầy của nền văn học vô sản... những sáng tác
của ông có tầm ảnh hưởng to lớn đối với các nhà văn thế hệ kế tiếp. Trong khi
người bạn nầy đang thao thao bất tuyệt thì một người bạn khác của tôi ứng
tiếng, phản bác, cho rằng văn của Lỗ Tấn là văn cách mạng; về tư tưởng, Lỗ Tấn
đi theo chủ nghĩa dân tộc, gần giống như đường lối văn học Cộng Sản…mà người
bạn nầy vốn dĩ là một cựu sĩ quan Quân Lực VNCH, bị đi cải tạo nhiều năm trong
ngục tù CS, anh không ưa Việt Cộng, anh
luôn dị ứng với những gì có dính líu đến Việt Cộng và Trung Cộng, nên anh tỏ thái độ phản đối mãnh liệt, dẫn đến
việc bất hòa, sứt mẻ tình bạn ….Tôi đứng ra can gián và cố gắng giãm dần sự
căng thẳng bằng cách giải thích “Việc nghiên cứu văn học dân tộc thời hậu Phong
Kiến và tiền Cách Mạng ở khắp nơi, không riêng gì ở Trung quốc là một điều đáng
khích lệ, vì đó là một điều hữu ích, mang tính phục vụ nhân sinh; còn việc theo
đường lối văn học phản truyền thống văn hóa dân tộc và phục vục mưu đồ chính
tri là một chuyện khác. Hơn nữa, thời tiền cách mạng, các nhà văn như Lỗ Tấn và
nhiều nhà văn khác chủ trương phá vỡ lề thoái phong kiến như “ Quân xử thần tử
thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”( Vua bảo tướng chết mà tướng không chết là không tỏ tấm lòng trung
hậu, cha bảo con chết mà con không chết là coi như bất hiếu), hoặc “ trai năm
thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” hoặc trọng nam khinh nữ (nhất nam
viết hữu thập nữ viết vô), hoặc “làm thân con gái cha mẹ đặt đâu phải ngồi đấy”,
mà các nhà văn vừa kể cho đó là những định kiến độc tài, những bất công xã
hội….đã lỗi thời, cần được phá bỏ, nên các nhà văn đó được những người đương thời quí mến… Tiếp đó, tôi đưa ra
thí dụ, một cố giáo sư Văn Khoa Đại học thời VNCH , cũng là một học giả nổi
tiếng, đó là cụ Giản Chi, chẳng những cụ nghiên cứu về Lỗ Tấn mà còn dịch
truyện của Lỗ Tấn ra tiếng Việt để tiện cho việc giảng dạy (trong truyện ngắn
của Lỗ Tấn, điểm nổi bật nhất là hệ thống bố trí nhân vật) nhưng giáo sư Giản
Chi vẫn trầm tĩnh trước các biến thiên lịch sử, cụ chỉ cố làm tròn thiên chức
của một nhà giáo đang sống trên miền đất tự do, nghiên cứu văn học, phân tách
văn học, giảng dạy văn học, phục vụ cho một nền giáo dục dựa trên Chân Thiện Mỹ….Tiếp
đó, cũng trong ý hướng giảng hòa tình bạn, tôi nói lảng qua giai thoại giao
duyên văn nghệ khá hy hữu giữa tôi và cụ Giản Chi như sau…
Sau khi đi tù cải tạo về tôi tình cờ gặp lại
thi sĩ Hoài Khanh ở Biên Hoà khoảng năm
1982 và cũng từ đó chúng tôi thường xuyên đến với nhau nơi các quán vệ đường,
khi thì tại quán cà phê Hoa Sứ đường Phan Châu Trinh, khi thì quán cà phê Hoa
Mận đường Nguyễn Hữu Cảnh Biên Hoà do hai chi em cô Lê Ngọc Sương và Lê Ngọc
Xuân làm chủ, uống trà bàn luận văn thơ hoặc nhắc lại một vài kỷ niệm thân thương
của những ngày tháng cũ…
Vào một buổi
sáng tinh mơ năm 1986 Hoài Khanh đến rủ tôi đi uống cà phê và lần nầy anh Hoài
Khanh có trao cho tôi một bài thơ đường luật của cụ Giản Chi, vừa làm xong, có
tựa là Trầm Ngâm; đồng thời yêu cầu tôi làm thơ hoạ bài thơ nầy, giúp cụ Giản
Chi có thêm niềm vui ở tuổi “cảnh ngày xế bóng, cảnh người tàn niên”. Theo Hoài
Khanh, lúc bấy giờ cụ Giản Chi đã quá bát tuần, gương mặt cụ luôn vui tươi,
hiếu khách nhưng thỉnh thoảng không tránh được nét trầm buồn thoáng hiện, như
thiếu vắng bạn tri âm. Bạn của cụ rất đông nhưng lúc bấy giờ đã đi đâu mất cả,
một số đã lặng lẽ đi về thiên cổ, một số khác đang nổi trôi theo vận nước tận
chốn trời xa… chỉ thỉnh thoảng có vài người đến thăm cụ trong số có thi sĩ Hoài
Khanh. Tôi vẫn thường xuyên hỏi thăm tin tức về cụ và thầm mừng cụ vẫn khoẻ
mạnh và tinh thần còn minh mẫn. Từ đó đến gần hai mươi năm sau, tôi tình cờ
biết tin cụ qua đời với tuổi thọ 101. Tôi chạnh lòng thương tiếc về cụ, rồi âm
thầm thả hồn về chốn xa xưa.
Tôi và thi sĩ
Hoài Khanh ở chung thành phố Biên Hoà và vẫn thường gặp nhau sau khi tôi đi tù
cải tạo về. Chúng tôi thường ngồi uống cà phê nơi các quán vệ đường và trao đổi
chút văn thơ của thời dĩ vãng. Tôi rất yêu thích thơ Hoài Khanh và mến con người
nghệ sĩ của anh, anh gốc người Bình Thuận, nhưng đã nhận Biên Hoà làm quê hương
thứ hai, cưới vợ người xứ Bưởi và chọn ấp Phước Lư Phường Quyết Thắng(BH) làm nơi
trú quán, ngoài tài văn thơ, anh còn am
tường và đam mê về hội hoạ, trong nhà anh (ở ấp Phước Lư) có treo nhiều tranh
của hoạ sĩ nổi tiếng Vann Gogh… Anh đã từng một thời là giám đốc nhà xuất bản
Ca Dao và cũng đã từng góp mặt với đời bằng các tập thơ Dâng Rừng, Thân Phận,
Thơ Lục Bát Hoài Khanh.. và tập truyện ngắn Đoá Hồng và Dế với nhiều bài thơ
bất hủ với những vần thơ thật dễ thương mà tôi cố học thuộc lòng để mong nhớ mãi…
Bến sông nầy,
bến sông nầy
Trăng xưa lạnh
xuống hàng cây gục đầu
Người xưa chừ
biết là đâu
Này trăng gió cũ
này câu giã từ
Lối đi vàng nhạt
mùa thu
Nghe lau lách
động niềm u uất buồn
Mắt người mang
cả quê hương
Lòng ta mang cả
đoạn trường tháng năm
Trăng chia niềm
nhớ thì thầm
Lệ chia niềm nhớ
ướt dầm núi sông
Lớn lên vì một tấm lòng
Để bao nhiêu hận
buộc vòng sơ sinh
Bao nhiêu tuổi
bấy nhiêu tình
Bao nhiêu nguyện
ước giận mình bấy nhiêu
Nhưng thôi buồn
đã ra nhiều
Trong ta là mấy
vạn chiều rưng rưng
Trong ta là núi
là rừng
Là trăm tiếng
hát đã dừng trên môi
Tiễn đưa thì tiễn
đưa rồi
Nhớ thương thì
nhớ thương rồi người ơi
Vòng tay không
chặt luân hồi
Xa xưa nghe nặng
bong trời luân lưu
Người mang đi cả
mùa thu
Ta mang về chút
tạ từ héo hon
Bến sông nầy, gió
trăng còn
Mênh mang vị cũ nghe
buồn lay bay.
Tưởng chừng như
chặt bàn tay
Ta ôm vũ trụ
tròn đầy mà mơ
Nhưng khi đã
biết tình cờ
Thì hai thứ tóc đã
mờ giấc xưa
Với trăng chia
nhớ đôi bờ
Với sông bến nọ
chia giờ ra đi
Người ơi còn lại
những gì ?
Mai sau nếu chút
tình si úa tàn ???”
(Trông Theo/ Thân Phận)
“Người em gái
trở về đây một bận
Con đường câm
bỗng sáng ánh diệu kỳ
Tôi lẫn trốn vì
thấy mình không thể
Mây của trời rồi
gió sẽ mang đi
……..
Rồi em lại ra đi
như đã đến
Dòng sông kia cứ
vẫn chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu
thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn
cây cỏ mọc hoang vu”
(Ngồi Lại Bên cầu/ Thân Phận)
Sau đây là bài thơ Trầm Ngâm của cụ Giản Chi, xin mời các
bạn thưởng thức những lời thơ trầm buồn, cụ tả kiếp nhân sinh là cuộc vay trả,
con người cứ lênh đênh mãi bến lầm với nước bầu cơm giỏ, chẳng tìm thấy tương
lai, trong thời điểm 1986 và tác giả cũng xác định là tác giả đã thoát ra khỏi
cái bóng tương lai mờ mịt đồng thời chấp nhận một dĩ vãng với tấm lòng thành
không mờ nhạt…
Trầm Ngâm
Là vay là giả cuộc trăm năm
Dâu bể lênh đênh cát bụi lầm
Nắng hạ mưa thu dài lẽo đẽo
Nước bầu cơm giỏ lạnh trầm ngâm
Một lần đã chạy hai lần mất
Nửa kiếp mong tu mấy kiếp nhầm
Thoát bóng tương lại trồng dĩ vãng
Mười phương không tịch một chơn tâm.
Giản Chi
(1986)
Khi nhận bài thơ trên đây, tôi mở ra đọc ngay và rất lưỡng
lự, không biết có nên nhận lời yêu cầu của Hoài Khanh hay không, vì ngại bài
hoạ của mình không đạt yêu cầu. Hoài
Khanh nói ‘‘ Tôi tin bài thơ hoạ của anh sẽ đem nguồn vui cho cụ Giản Chi’’.
Thế là tôi nhận lời và hứa sẽ cố gắng. Và đây là hai bài thơ hoạ của tôi:
SOI TÂM
Đường đời xuôi ngược mấy mươi năm
Chớt tỉnh mới hay một kiếp lầm
Chạy chuốc công danh cuồng ảo vọng
Tìm mua nhân nghĩa rộn sầu ngâm
Chiếc thân tứ đại mai tan rã
Cái kiếp phù sinh dự tính nhầm
Xoá bóng tương lai dìm dĩ vãng
Chong đèn soi rọi mãi lương tâm.
Thế Nhân(1986)
BÈO TÂM
Đầu ghềnh cuối bãi chẳng bao năm
Số phận rủi dung mãi bến lầm
Sáng hợp chiều tan thân lận đận
Trăng đưa gió đẩy lệ sầu ngâm
Cuộc đời trôi nổi sương rơi phủ
Kiếp sống lênh đênh nắng rọi nhầm
Mưa giạt sóng dồi từng cánh rã
Vẫn thầm theo nước trở về tâm.
Thế
Nhân(1986)
Và trong dịp nầy tôi có trình bày, nhờ hai người bạn, anh
Trần Quang Nghĩa ngụ tại Tân Phong(BH), cựu sĩ quan Không Quân thời Đệ Nhất Cộng
Hoà, thân phụ của anh là cố Trưởng Toà Trần Quang Nghiêm chủ đồn điền sở Quít,
ngoài vòng đai, hướng Bắc và Tây Bắc phi trường Biên Hoà từ làng Tân Phong đến
làng Bình Ý, nơi ông Trương Gia Mãng( thân phụ của ông Trương Gia Triệu tức
Trần Bạch Đằng, bút hiệu Nguyễn Trương Thiên Lý tác giả Ván Bài Lật Ngữa) có
một thời làm quản lý; và anh Nguyễn Thành Trung, cựu Chánh Sở Nhân Viên Bộ Lao Động thời
VNCH(thân phụ của anh Nguyễn Thành Liêm, sĩ quan tình báo chiến lược đơn vị
101, thuộc Bộ tổng Tham Mưu QLVNCH….) ngụ gần khu Dốc Sỏi đường Phan Đình Phùng (Biên Hoà), viết hai bài họa
sau đây
ĐAU THƯƠNG
Thực hư vinh nhục gẫm bao năm
Hồn mãi lang thang xác lại lầm
Thành bại bại thành vài giấc mộng
Nhục vinh vinh nhục mấy câu ngâm
Đời rơi bão táp chân chưa hãm
Tuổi ngã hoàng hôn bước vẫn nhầm
Cội cũ nguồn xưa ràng rụa nhớ
Và còn quằn quại vết thương tâm.
Thu Mặc Tùng Tư
(Trần Quang Nghĩa)
(1986)
MỘT TẤM LÒNG
Đời người dễ được đến trăm năm
Trong cuộc bể dâu khối chuyện lầm
Nước lũ mưa nguồn thường sống động
Cây rừng đá núi mãi trầm ngâm
Nam Kha một giấc mê hay tỉnh
Bừng sáng soi gương mới thấy nhầm
Cuộc sống bon chen nhiều hệ lụy
Làm sao giữ được một chơn tâm.
Nguyễn
Thành Trung
(1986)
Khoảng hai tuần lễ, sau khi nhận bài thơ Trầm Ngâm của cụ
Giản Chi, tôi có dịp gặp lại Hoài Khanh và trao cho Hoài Khanh bốn bài thơ hoạ
nói trên ...
Tôi tin rằng cụ Giản Chi đã nhận được tất cả bốn bài thơ
hoạ, nhưng tôi vô tình không hỏi anh Hoài Khanh về cảm nghĩ của cụ Giản Chi. Mấy
bài thơ trên là cả một sự cố gắng và tấm lòng của chúng tôi đối với cụ Giản Chi
qua trung gian anh Hoài Khanh.
Sau khi qua Mỹ định cư, tôi có họa thêm hai bài thơ dưới
đấy và định lòng một ngày nào đó, có dịp gữi về tặng cụ Giản Chi, qua trung gian thi sĩ Hoài
Khanh.
MÃI PHÂN TÂM
Xa quê thắm
thoát đã mười năm
Trở gót về quê
cát bụi lầm
Các đỉnh lầu cao
hương vị đảng
Những căn nhà
thấp lệ sầu ngâm
Thiên đường Cộng
Sản nghe mà chán
Thế giới Tự Do
tính mãi nhầm
Đã xoá chín phần
quân gian ác
Một phần còn lại
mãi phân tâm.
Thế Nhân
(2001)
THẸN VỚI LƯƠNG TÂM
Rời xa đất mẹ đã mười năm
Bấm đốt thiên
can cảm thấy lầm
Sức yếu tuổi già
thân lận đận
Đường xa gió
lộng bóng sầu ngâm
Thù nhà chưa trả
không tròn hiếu
Nợ nước còn mang
mãi vết nhầm
Thôi thế cũng
đành theo số phận
Quan hà cam thẹn
với lương tâm.
Thế Nhân
(2001)
Những bài thơ
trên đây chưa có dip gửi đi…thì vào một
buổi sáng, cách đây ba năm, tôi vào mạng lưới thông tin quốc tế, biết được tin cụ Giản Chi qua đời ở Việt Nam
vào chiều ngày 22-10-2005, đăng trên báo ‘Người Việt Online’ . Tôi đâm ra thẫn
thờ, buồn vô kể, tiếc thương một học giả mà lòng tôi vô cùng kính trọng, mặc dù
tôi chưa được một lần hân hạnh diện kiến, chỉ ‘văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”.
Qua sách báo,
tôi biết cụ Giản Chi, tên thật Nguyễn Hữu Văn, sanh năm 1904 tại tỉnh Hà Đông, là
một giáo sư, Hán học uyên thâm, từng giảng dạy môn triết học Trung Quốc và Hán
Nôm Việt Nam tại các đại học Văn Khoa, Sư Phạm và đại học Huế và đã từng dịch
các tác phẩm Cô Độc của Lỗ Tấn(1954), Lỗ Tấn Tuyển Tập(1987), Cái Đêm Hôm
Ấy(tác phẩm của Somerset Maugham 1965), Tấc Lòng (thơ 1993), Vương Ma Cật họa
sư thi Phật(Viết về Vương Duy), và cụ Giản Chi đã soạn chung với Nguyễn Hiến Lê
các tập: Đại Cương Triết Học Trung Quốc(hai quyển-1965), Sử Ký Tư Mã
Thiên(1972), Chiến Quốc Sách(1967), Tuân
Tử, Hàn Phi Tử.
Khi còn ở Việt
Nam, tôi định lòng sẽ đến thăm Giáo sư Giản Chi khi có cơ hội để học hỏi ở giáo
sư nhiều điều hữu ích về viết văn, làm thơ, nhất là kinh nghiệm từng trải trong
cuộc đời… nhưng rồi… vì đường ngược đường xuôi, chén cơm manh áo sau cuộc đổi đời
cho đến ngày lên máy bay rời quê mẹ, tôi vẫn không thực hiện được ý định của
mình.
Khoảng tháng Mười năm 2005, khi nghe tin cụ Giản Chi vĩnh
viễn ra đi, lòng tôi cảm thấy bùi ngùi thương tiếc, nhớ về chuyện hoạ bài thơ
‘Trầm Ngâm’ của Cụ qua trung gian thi sĩ Hoài Khanh cách nay hơn mười năm.
Trong lúc buồn, thương tiếc…tôi hoạ tiếp một bài sau đây, thay nén hương lòng,
kính dâng hương linh của Cụ.
Bác Về
Tiên Cảnh
Tuổi đời thượng thọ quá trăm năm
Xa lánh trần
gian chẳng chút lầm
Bác rảnh rang
rồi nơi Cõi Tịnh
Tôi còn bận bịu
mấy câu ngâm
Tin đưa rằng Bác
về tiên cảnh
Thoảng nghĩ rằng
tôi đã hiểu nhầm.
Sự thật đấy mà !
– Đây sự thật !
Bùi ngùi nghe lệ
nhỏ vào tâm.
Thế Nhân
(2005)
Tôi viết bài nầy
cách đây gần ba năm khi hay tin cụ Giản Chi cỡi hạc qui tiên, nhưng mãi đến hôm
nay, nhân cuộc “trà dư tửu hậu” nói trên, tôi mới có dịp nhắc lại việc họa bài
thơ Trầm Ngâm của cụ và cũng nhờ chút giai thoại nầy, mà các bạn tôi đề huề
tình bạn.
Những
bài thơ tôi họa sau nầy, đã không còn dịp trao đến giáo sư Giản Chi nữa rồi,
nhưng tôi vẫn cố tìm cách liên lạc, để trao cho thi sĩ Hoài Khanh đọc để cùng
thương tiếc cố Giáo Sư Giản Chi, cũng là một học giả, một nhà thơ… và cũng để
tưởng nhớ hai người bạn thơ của tôi Trần Quang Nghĩa và Nguyễn Thành Trung từng
tham gia họa bài thơ “Trầm Ngâm” nói trên, cũng đã chào vĩnh biệt cuộc đời, đi về
miền Tịnh Độ…
Tôi đang sống
nơi hải ngoại còn thi sĩ Hoài Khanh đang cặm cụi ở quê nhà… tôi nghe có lúc anh
về quê ở Phan Thiết dưỡng bịnh (?), nhưng nay lại nghe nói, Hoài Khanh đã trở
lại Biên Hòa làm kiếp con tằm, tiếp tục nhả tơ…và theo tin nơi tập san Thư Quán
Bản Thảo do anh Trần Hoài Thư chủ trương, thi sĩ Hoài Khanh đang dự định cho xuất
bản các tập thơ “Hương Sắc Mong Manh”, “Phương Trời Lưu Viễn”, “Quê Hương Đỉnh
Cao và Hố Thẳm”…
Viết đến đây,
tôi xin dừng lại, cám ơn thi sĩ Hoài Khanh, cám ơn cố giáo sư Giản Chi đã lưu
lại trong tôi một trời kỷ niệm.
Nguyễn Kim Lộc
Chicago 16-6-2008