KỶ NIỆM VỚI
NGHĨA TRANG QUÂN
ĐỘI BIÊN HOÀ
Đến chiều ngày
29-4-75, khoảng trời vừa tắt nắng, tôi còn đứng trên đồi Nghĩa Trang Quân Đội
Biên Hoà với nỗi buồn vô hạn, nhìn xe cộ và dòng người tất tả, cùng di chuyển về
hướng Sài Gòn. Trên gương mặt mọi người hiện rõ nét hốc hác, mệt mỏi vì đường
xa và sợ hải, họ như cố chạy càng xa càng tốt, mong sao thoát khỏi làn sóng đỏ đang
vồ dập phía sau lưng… Lòng tôi cũng nôn nã lắm, biết VNCH đã đến ngày tàn, không
còn phương thuốc nào có thể cứu chữa được, nhưng tôi nghĩ trách nhiệm và lương
tâm của người Cảnh Sát, nên tuân lệnh cấp chỉ huy trực tiếp, thi hành nhiệm vụ đến
giờ phút cuối cùng. Tôi đi vòng xuống phía trước tượng Tiếc Thương, thấy gương
mặt và dáng dấp người lính chiến ngồi trên bục đá với khẩu súng trường gác
ngang trên đùi (do điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tạc theo mẫu người anh Võ văn
Hai, một hạ sĩ binh chủng Nhảy Dù), sao mà buồn quá đỗi, tôi ngắm tượng Tiếc Thương,
rồi nhìn những dãy mồ tử sĩ sơn màu tang trắng, nằm ngang dọc thẳng hàng trên đồi
Nghĩa Trang, mà cảm thấy nỗi buồn vương vấn, xót thương vô cùng cho thân phận
người lính chiến VNCH. Tôi ngẳm lại thân phận mình và thầm nghĩ, chắc cũng đến
lúc phải chia tay với anh lính tượng Tiếc Thương nầy rồi. Tôi chào anh và lẩm bẩm
mấy câu:
Thôi chào anh nhé tôi đi
Gặp nhau.. Xin hẹn tháng
ngày bình yên
Ba năm chung một nỗi niềm
Ngùi thương tử sĩ về yên
chốn nầy
Hồn anh phảng phất đâu đây
Vi vu gió lộng hàng cây
bạch đàn
Con đường dẫn vào nghĩa
trang
Nghe sao lạnh lẽo bàng
hoàng xót xa.
Chào anh lần chót… gọi là…
Mai sau biết có về qua lối nầy.
Coi như tôi đã làm xong bổn phận của một người Cảnh Sát được thượng cấp cử
về làm Trưởng Cuộc Xã Bình An, lo việc an ninh trật tự từ 1973 đến 30-4-1975.
Trong khu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà không một nơi nào mà tôi chẳng đi qua,
tới lui nhiều lần, nhất là những lần Quân Lực VNCH có một vì SAO rụng hoặc khi
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến dự lễ ngày Chiến Sĩ Trận Vong tại Đài Tử Sĩ trên
đồi Nghĩa Trang. Việc an ninh trật tự từ ngoài xa lộ vào cổng Nghĩa Trang và
chung quanh Nghĩa Trang là trách nhiệm của Cuộc Cảnh Sát Xã Bình An thuộc quận
Dĩ An tỉnh Biên Hoà.
Trong những lần vào nghĩa trang, thỉnh thoảng, tôi chứng kiến cảnh trực thăng
chở xác binh sĩ tử trận từ các chiến trường sôi động về, từng chiếc poncho gói
xác binh sĩ được khiêng vào hiên nhà, phía sau phòng ướp xác, một toán thanh niên
khoảng bốn năm người, thường trực làm phận sự, xịt nước tắm rửa các thi thể cho
sạch các vết thương, vết máu, trước khi cho vào các hộc ướp lạnh chờ thân nhân đến
nhận diện, làm thủ tục nhận xác hoặc đem về mai táng ở quê nhà hoặc chôn tại
nghĩa trang nầy. Họ làm công việc rất tự nhiên, không sợ sệt, gớm ghê gì cả, họ
không dùng khẩu trang, cũng không thoa dầu…dường như họ đã quen rồi với cái mùi
tử khí … Tôi rất cảm phục những thanh niên
lo phần hậu sự nầy.
Tôi nhớ có lần đi ngang qua nghĩa trang, gặp một vị sĩ quan thuộc Đại Đội
Chung Sự, vị nầy hỏi tôi ‘Sao tôi thấy Trung Uý cứ ra vô đây hoài vậy ?’.
Tôi cười nhạt và trả lời rằng ‘vì có nhiều thân nhân và bè bạn nằm đây nên phải
đến thăm viếng hoài thôi’. Sự thật thì, mỗi khi có nhu cầu công tác an ninh trật
tự tại khu vực gần Vườn Ương ấp Bình Thắng, tôi thường chọn con đường tắt, từ
ngã ba cầu Cầu Bà Lồ chạy qua phía trước hãng giấy Mê Kông vào cổng sau Đại Đội
Chung Sự, rồi băng ngang Nghĩa Trang, đến ấp Bình Thắng thay vì phải chạy vòng,
xa hơn và tốn nhiều thì giờ. Và có một lần khác tôi gặp một vị hạ sĩ quan khác
cũng đặt câu hỏi tương tự, tôi lại trả lời ‘ Vào đây coi ô đất nào đẹp để xí phần’
và được viên hạ sĩ quan nầy vừa cười vừa nói ‘Nghĩa Trang nầy không có tiêu chuẩn
dành cho Trung úy đâu’. Tôi cười. Sự thật đúng vậy thôi, mặc dù tôi cũng là mộ
cựu quân nhân có số quân 57 A.172035.
Đối với Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà tôi có rất nhiều kỷ niệm và còn được
nghe nhiều huyền thoại về anh lính ‘ Tượng Tiếc Thương’.
Nhiều người đến viếng thăm Nghĩa Trang QĐBH đều nói ‘Nhìn anh lính ‘Tượng
tiếc Thương’ sao mà buồn quá, nhưng theo tôi, thì ‘ Tượng Tiếc Thương’ không gợi
buồn bằng bức hoạ cảnh ‘ Tượng Tiếc Thương’ với hai màu xanh xám nhạt, treo trên
tường trong một văn phòng chung sự, có lần tôi ngắm bức tranh, rồi quay ra nhìn
một số đông người thuộc nhiều lứa tuổi, phần đông là phụ nữ và trẻ con, đứng cạnh
dãy quan tài được phủ những lá cờ vàng, cùng lúc ngửi mùi nhang khói, tự nhiên
tôi thấy lòng mình chùng xuống, buồn không thể tả, rồi bỗng nhớ mấy câu thơ của
Lê Thị Ý, mà cảm thấy xót thương cho những người phụ nữ Việt Nam trong thời
binh lửa…
‘Ngày mai đi
nhận xác chồng
Say đi để tưởng
mình không là mình
…
Bây giờ anh phủ
cờ vàng
Anh lên lon giữa
hai hàng nến trong
Mùi hương cứ
ngỡ hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng
ôm vòng người yêu !’
Mời các bạn đọc thêm bài thơ sau đầy,
để có được giây phút cảm thông nỗi buồn thắm thía của tôi…
Chiều Nghĩa Trang
Hôm qua chiến địa
còn oanh liệt
Súng đạn rền
vang giết kẻ thù
Đến sáng hôm
nay im lặng tiếng
Người về lòng đất
biệt thiên thu.
Quan tài một dãy
chiều sương lạnh
Những lá cờ vàng
được phủ lên
Những tấm huy
chương, bằng tưởng lục
Nhạt nhoà màu
sắc khói nhang buồn.
Tiếng kèn đưa
tiễn sang biên giới
Giữa chốn nghĩa trang lạnh đất trời
Cây cỏ úa vàng quanh mộ vắng
Vợ buồn con thét… lệ tuôn rơi.
‘Tiếc Thương’ tượng lính, buồn thương tiếc
Trước Cổng Tam Quan đón bạn về
Hồn nước vấn vương Đền Tử Sĩ
Dũng Đài Nghĩa Khí ánh gươm soi.
Vành Khăn Tang trắng còn vương lệ
Áo trắng tang chồng cảnh cúc côi
Con khóc thương cha đền nợ nước
Lão bà sùi sụt tiếc thương đời…
(TN)
Sau ngày 30-4-75 tôi không còn có dịp ghé thăm khu Nghĩa Trang Quân Đội Biên
Hoà nữa, vì bị đi tù cải tạo, rồi khi ra khỏi tù, lại bận rộn sinh kế, phụ vợ
con kiếm sống qua ngày, kế có cơ hội đi HO qua đinh cư tại Mỹ vào năm 1991 đến
nay.
Sau nầy tôi đọc báo và được biết có một số người về thăm Việt Nam có viếng
Nghĩa Trang QĐBH. Họ mô tả nơi nầy đã bị đào phá tan hoang và do một đơn vị bộ đội
thuộc Quân Khu 7 quản lý, không cho bất cứ ai vào thăm viếng. Tượng ‘Tiếc Thương’
bị giật ngả xuống đất vào những ngày đầu tháng 5-75 trong tư thế , đầu hướng về
Sài Gòn, chân chỏng về hướng Bắc, một cánh tay bị gảy lìa ra và cho kéo đi nơi khác (nghe nói kéo bỏ tại một
khoảng đất trống phía bên trái cầu Xa Lộ Đồng Nai, khoảng đất trống cận bờ sông,
nơi có một Đại Đội Công Binh VNCH trú đóng trước ngày 30-4-75, và sau đó được kéo
bỏ tại một khoảng đất trống khác trong phạm vi Quận Dĩ An), hiện không biết tượng
nầy kéo bỏ nơi đâu, chỉ còn lại cái bục, thế mà vẫn có một số người đến đốt
nhang chiêm bái, họ cho rằng tượng Tiếc Thương linh thiêng. Số người đến đốt
nhang thường có ba dạng, một dạng mê tín, lễ bái cầu xin nọ kia, một dạng có cảm tình với chế độ cũ và một dạng
là thân nhân của tử sĩ VNCH, đến đốt nhang để đỡ nhớ thương những người thân của
họ đã chết rồi mà còn bị cầm tù, không ai được vào bên trong để cúng kiếng. Sau
nầy chánh quyền địa phương cho đập phá luôn cái bục còn lại để cho không còn dấu
tích gì liên quan đến tượng ‘Tiếc Thương’.
Đến ngày 30-4-75 đã có đến 16.000 tử sĩ về an giấc nghìn thu tại nghĩa
trang nầy, trong số có cố Đại Tướng Đỗ Cao trí, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3
Chiến Thuật….Dân chúng cư ngụ quanh khu NTQĐBH đặt thêm cho nghĩa trang nầy một
cái tên rất khôi hài, đó là Vùng 5 Chiến Thuật, những quân nhân được thuyên
chuyển về đây sẽ ngàn năm im tiếng.
Nghĩa Trang Quân Đội được thiết lập vào khoảng năm 1965 trên một ngọn đồi
không cao lắm, tiếp giáp các bờ ruộng tư nhân, lò gạch của Bà Hai Đợi và ông Năm
Thường về phía Bắc, phía Nam tiếp giáp các khu vườn cây trái và nhà dân, phía Đông
tiếp giáp xa lộ Biên Hoà Sài Gòn và phía Tây giáp với một số vườn cây ăn trái và
khu hầm đất đỏ. Đài Tử Sĩ được xây trên đỉnh đồi, khu đất bên phải là phần mộ các
vì Tướng, phía sau là một khu đất rộng, được phân chia thành từng ô như lưới nhện,
mỗi ô là những hàng bia trắng ngay hàng thẳng lối, góc sau bên phải là văn phòng
Đại Đội Chung Sự, phía trước là một con đường trán nhựa khoảng chừng non một trăm
thước, hai bên có trồng hai hàng cây khuynh diệp, thông ra xa lộ Biên Hoà-Sài Gòn
và nơi đầu ngỏ vào, cận xa lộ có một tượng
lính ‘Tiếc Thương’ đặt trên một cái bục cao, anh lính trong thế ngồi nghỉ với
khẩu súng trường gác trên đùi và mắt lơ đãng nhìn thẳng hướng đồi Bác sĩ Tín và
Hoả Táng Đài, nằm phía bên kia Xa lộ, đối diện nghĩa trang. Ngoài ra, tại trung
tâm khu Nghĩa Trang còn có một đỉnh đài cao có tên là NGHĨA DŨNG ĐÀI gồm một trụ
bê tông chính cao hơn bốn mươi thước hình một thanh gươm có bốn chân trụ chịu
trên bục xi măng bê tông cốt sắt hình tròn có tên là Vành Khăn Tang, vòng cung
dài trên bốn mươi thước do một đơn vi Công Binh Kiến Tạo (đại đội 541 ?) xây
dựng dự trù hoàn tất trước ngày 19-6-1975, trông thật ngạo nghể uy nghiêm trên
vùng mộ địa đượm buồn.
Sau nầy tôi có dịp đọc bài viết của anh Lê Đồng một sĩ quan thuộc Đại Đội Công
Binh Kiến Tạo, đăng trên tờ bán nguyệt san Chicago Việt Báo số 84 trang 136, cho
biết hiện chính quyền dịa phương đã xây một nhà máy lọc nước Thuận An, án ngữ
ngay bên phải cổng Tam Quan, nơi con đường chính hướng đến Nghĩa Dũng Đài. Viết
đến đây tôi thoạt nhớ và đoán chắc anh Lê Dồng còn nhớ tôi(?), có một lần tôi can
thiệp theo sự yêu cầu của Đại Đội Công Binh Kiến Tạo 451( ?)và anh Trưởng
Cuộc Cảnh Sát Long Bình, tôi vào gặp cha xứ làng Cao Thái để xin cho một chiếc
xe ủi đất và một xe tải GMC đang công tác ủi đất trên phần đất xã Bình An do tôi trách nhiệm,
bị dân quân làng Cao Thái cưỡng bách bắt đem về đậu trước nhà thờ làng Cao Thái
thuộc xã Long Bình( Thủ Đức Gia Định) với một lý do rất khôi hài ‘Chúng tôi từ
Bắc di cư vào Nam, mấy ông phải để khu đất nầy(khu đất dối diện Nghĩa trang Quân
Đội Biên Hoà) không cần biết của ai, để cho chúng tôi canh tác’. Ông cha xứ nói
rằng, việc nầy do các con chiên chủ động và yêu cầu tôi trực tiếp giải quyết với
các con chiên, tôi trong tư thế lỡ leo lên lưng cọp, rất phập phòng lo sợ, sợ
giải quyết không xong, chiếc xe jeep Cảnh Sát tôi đang sử dụng, bị đốt luôn, thì
coi như đại nạn đến với tôi… Tôi cố giữ bình tỉnh, với sự ủng hộ của các anh quân
nhân Công Binh, Trưởng Cuộc Long Bình và một nhân viên Quân Cảnh quận Dĩ An. Các
người trong họ đạo làng Cao Thái đã vào đầy phòng họp, trong bầu không khí rất
là căng thẳng, tôi được mời lên bàn ‘chủ toạ’ để được nghe chất vấn, ông Trùm
mang loa phóng thanh, nêu lên nhiều câu hỏi và sau cùng bảo tôi hứa và cam kết để
phần đất phía bên kia Xa Lộ ngang Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà cho dân làng
Cao Thái canh tác. Đến lượt tôi trình bày, tôi xin hỏi ông Trùm và quí vị trong
họ đạo làng Cao Thái rằng nếu nhà cửa của quí vị, tài sản của quí vị bị tôi tước
đoạt và cho người khác sử dụng, quí vị có bằng lòng không? Nếu quí vị trả lời bằng
lòng, thì tôi sẽ ký giấy cam kết, tôi biết làm như vậy là phạm pháp, tôi sẽ bị ở
tù, nhưng tôi sẽ ký… Tôi nhìn quanh phòng họp, thấy mọi người kể cả ông Trùm đều
im lặng, không ai trả lời câu hỏi của tôi. Thế là tôi kết luận, quí vị đã buộc tôi làm điều sai trái, ngoài
phạm vi và quyền hạn của tôi, làm sao tôi
có thể viết lời cam kết theo ý quí vị được. Tôi mong quí vị thông cảm cho địa vị
nhỏ bé của tôi. Tôi đến đây với mục đích
yêu cầu quí vị thả các quân nhân và trả các quân xa về cho Đại Đội Công Binh
(Kiến Tạo 541 ?) đồn trú tại đầu cầu Xa Lộ Biên Hoà thuộc ấp Ngãi Thắng/ Xã
Bình An, Chúng ta đang sống trong một xã hội có luật pháp, nên để cho luật pháp
giải quyết mọi vấn đề. Nguyện vọng của quí vị, tôi sẽ phúc trình, đạo đạt lên
chánh quyền cấp tỉnh để nơi đây thẩm quyền giải quyết…Tôi chào ra về trong sự
im lặng đồng tình cho phép của mọi người trong họ đạo làng Cao Thái. Tôi mừng
quá, thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng ngàn cân ra khỏi người. Trên
đường ra Xa Lộ tôi mở máy liên lạc và được biết Bộ Chỉ Huy Tỉnh Biên Hoà đã cho
tăng cường ngay hai trung đội CSDC ứng chiến tại Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà
chờ yểm trợ tôi khi cần… Đến sáng hôm sau, trong khi tôi đang ngồi trong hội trường
BCH Cảnh Sát Khu 3 cùng tất cả Trưởng Cuộc Cảnh Sát toàn Vùng 3 về họp, để chờ nghe
ông Biện Lý Phạm Văn Tòng đến chỉ thỉ các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ của Sĩ
quan Hình Cảnh Lại, thì được Trung Tá TQLC Nguyễn Minh Châu Quận Trưởng Dĩ An
cho gọi máy bảo tôi phải trở về xã Bình An gắp để giải quyết vụ dân quân làng
Cao Thái bắt xe ủi và xe GMC của đơn vị Công Binh nói trên…..Câu chuyện đã thuộc
về dĩ vãng, tôi chỉ nhắc một đoạn nhỏ liên quan đến Nghĩa Trang Quân Đội Biên
Hoà và Đại đội Công Binh Kiến Tạo 541(?) trú đóng tại ấp Ngãi Thắng Thuộc Xã Bình
An. Tôi không ngờ đã hơn ba mươi năm trôi qua, hôm nay tôi và anh Lê Đồng còn gặp
nhau, mặc dù không tạng mặt tay bắt mặt
mừng nhưng gặp nhau trong ý hướng nhớ về Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, nơi mà
tôi với anh đã có một thời phục vụ.
Hơn ba chục năm rồi
mà hình ảnh khu Nghĩa Trang Quân Độ Biên Hoà vẫn còn đậm nét trong tôi, với biết bao kỷ niệm, biết bao nhiêu lần tôi chứng kiến cảnh đau thương ‘Lá vàng còn ở trên cây, lá
xanh rụng trước, Trời ơi ! Là trời !’, chứng kiến bao nét oai hùng
của những thiết vận xa M113 chở những linh hồn bất tử của những vì Sao sáng ngời
tên tuổi về với Nghĩa Trang trong tinh thần
‘Anh hùng tử chứ khí hùng nào tử’. Tôi lưu luyến Nghĩa Trang Quân Đội Biên
Hoà vì nghĩa trang nầy đã cho tôi nhiều kỷ niệm trong hơn hai năm tôi phục vụ tại
vùng đất nầy, ngoài ra NTQĐBH còn là một nghĩa trang quân đội lớn nhất Đông Nam
Á, đã trở thành một thắng cảnh lịch sử với nhiều kiến trúc ấn tượng, nằm trong
lãnh thổ tỉnh Biên Hoà tạo thêm cho Tỉnh Biên Hoà một chút tiếng vang.
Tôi viết phần trên đây cách nay hơn một năm, nay lại có dịp mang ra viết tiếp,
vì câu chuyện Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà đang sôi nổi trong dư luận trong và
ngoài nước, sau khi Thủ Tưởng Việt Nam ký quyết định số 1568/QĐ-TTg ngày
27-11-2006 ra lệnh Quân Khu 7 bàn giao nghĩa địa xã Bình Anh, một phần đất có địa
danh Nghĩa Trang Quân Đội Biên hoà cho Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Bình Dương quản lý
và sử dụng vào việc phát triễn kinh tế xã hội.
Sau khi quyết định nói trên được ban ra, nhiều người đã từng quan tâm đến
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, nhất là thành phần cựu quân VNCH trong và ngoài
nước đưa ra nhiều giải đoán, hoặc bi quan hoặc lạc quan hoặc khách quan với những
điểm chánh sau đây :
*Đó là dấu hiệu của sự hoà giải và hoà hợp dân tộc, bằng cách chỉ thị cho
Quân Khu 7 bàn giao khu đất NTQĐBH đang quản lý, cho UBND Tỉnh Bình Dương làm
nghĩa địa dân sự xã Bình An, giúp cho thân nhân của 16.000 tử sĩ VNCH được ra vào
tự do để sửa sang mồ mả cho người thân của họ và cũng có thể chánh quyền Việt
Nam hiện tại sẽ cho xây dựng nơi nầy thành một Nghĩa Trang Quốc Gia chôn những
người lính chiến Việt nam của hai bên chiến tuyến như Nghĩa Trang Quốc Gia
ARLINGTON ( Bức Tượng Đá Đen) của Hoa Kỳ tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
*Đó là dấu hiệu của sự xoá tên NTQĐBH(cấp Quốc Gia thời VNCH) nay chỉ là
nghĩa địa dân sự xã Bình An với diện tích thu hẹp chỉ còn có 58 mẫu thay vì 125
mẫu ta và rồi đây Uỷ ban Nhân Tỉnh Bình Dương sẽ ra thông cáo yêu cầu những người
có thân nhân chôn tại nghĩa địa xã Bình An (tức Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà)
phải thực hiện việc bốc cốt cải táng nơi khác để UBND Tỉnh Bình Dương sử dụng
phần đất nầy vào việc phát triễn kinh tế và xã hội…
*Đó là dấu hiệu của sự khai thác Nghĩa Trang QĐBH làm khu du lịch để hốt tiền
của Việt Kiều, nhất là những người có thân nhân đang an giấc nơi đó…
Việc suy đoán thì ai cũng có quyền suy đoán, nhưng kết quả đúng hay sai vẫn
phải chờ thời gian sẽ trả lời. Tuy nhiên, lòng tôi vẫn cầu mong Nghĩa Trang Quân
Đội Biên Hoà sẽ còn lưu dấu tích giữa không gian và cả trong lòng người dân Việt,
mặc dù tỉ lệ cầu mong của tôi rất mong manh.
Và sau đây là phần diễn tiến liên quan đến việc hình thành NTQĐBH, do tôi sưu
tầm và ghi lại qua nhiều tờ báo trên mang lưới toàn cầu:
-NTQĐBH được thành lập do sáng kiến của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
-Bộ Tổng Tham Mưu/ Quân Lực VNCH, được giao phó công tác dùng trục thăng
thi sát địa thế khắp vùng đất rộng thuộc ba tỉnh Gia Định, Biên Hoà và Bình Dương
và sau cùng chọn một địa điểm rất tốt đẹp, một ngọn đồi thoai thoải rộng 125 mẫu
ta thuộc ấp Bình Thắng, xã Bình An(Dĩ An/ Biên Hoà), dự trù chôn đến 30.000 tử
sĩ.
-Một đồ án trong số 54 đồ án hình thành NTQĐBH của Trường Đại Học Kiến trúc
Sài gòn đệ trình, được tuyển chọn với tất cả phần kiến trúc như hiện trạng hôm
nay gồm Cổng Tam Quan, Đền tử Sĩ, Nghĩa Dũng Đài… và sự phân chia thành từng
khu vực trong nghĩa trang…
-NTQĐBH được giao cho Công Binh VNCH(Liên Đoàn 30 Công Binh Kiến Tạo) thực
hiện và khởi công hình thành khu đất nghĩa trang vào năm 1965
-Doanh trại Liên Đội Chung Sự và nhà xác được xây cất vào năm 1966 và cũng
từ năm nầy, NTQĐBH bắt đầu đón nhận tử sĩ về yên giấc nơi đây.
-Công trình xây Cổng Tam Quan và Đền Tử Sĩ cũng được thực hiện sau đó.
-Tượng ‘Tiếc Thương’ được hình thành qua nhiều giai đoạn, từ khi Thiếu tá
ngành Quân Nhu cũng là một điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu vẽ mẫu trên tờ giấy
bao thuốc lá, tìm người làm mẫu, đúc tượng bằng thạch cao quét nhũ vàng đặt nơi
cổng vào Nghĩa Trang vào ngày 1-11-1966, sau đó một thời gian, tượng đưa về xưởng
điêu khắc khoảng 1970, để được đúc lại bằng đồng …
-Sau vụ Tết Mậu Thân(1968) và Mùa hè Đỏ Lửa (1972), NTQĐBH đã chôn đến
10.000 chiến sĩ hy sinh và nhiều tướng tá.
-Đến ngày 30-4-75 đã có đến 16.000 lính chiến tử trận chôn tại NTQĐBH trong
số có một ngôi mộ chôn tập thể 60 binh sĩ tử trận sau cùng của cuộc chiến.
-Nghĩa Dũng Đài đang thực hiện dang dở, dự trù hoàn tất trước ngày
19-6-1975, nhưng đến ngày 30-4-75 VNCH chịu cảnh tan hàng, rã ngũ.
-Khoảng đầu tháng 5-75 tượng Tiếc Thương bị giật sập đồng thời một đơn vị bộ
đội thuộc Quân Khu 7 được điều động đến trấn giữ nghĩa trang nầy.
-Từ 1998, đã có nhiều cá nhân và nhiều nhóm Việt kiều Hải ngoại phối hợp với
những người trong nước lo việc tảo mộ binh sĩ và tướng tá còn nằm tại Nghĩa
trang….
-Tháng 7-2007 Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ra quyết định giao nghĩa địa Xã
Bình An (tức NTQĐBH trước đây) với diện tích 58 mẫu ta thay vì 125 mẫu do QK 7
quản lý hơn 30 năm qua, cho UBND Tỉnh Bình Dương sử dụng vào mục đích phát triễn
kinh tế xã hội.
-Hiện tại, ở hải ngoại, nhiều tờ báo đã đề cập đến NTQĐBH và đưa nhiều giải
đoán hoặc lạc quan, hoặc bi quan hoặc khách quan như tôi có dịp trình bày trên đây,
ngoài ra còn có một số người suy diễn xa hơn, nhân dịp nhà điêu khắc Nguyễn
Thanh Thu đã trở về Việt Nam, họ cho rằng nhà điêu khắc nầy có ý định tái thực
hiện ‘Tượng Tiếc Thương’ ở một nơi nào đó, nhưng theo tôi thì việc nầy khó mà
thực hiện hoặc không bao giờ có thể xảy ra. Ông Nguyễn Thanh Thu đang sống với vợ và bảy người con trên một thửa đất
hương quả rộng 3.000 thước vuông với nhiều bông hoa, cây cảnh và tượng mỹ thuật (có thể gọi là vườn
Mỹ Thuật gia đình của vợ con ông) có một cái quán cà phê hiệu TƯỢNG ĐÁ, khung cảnh
trang trí đơn sơ nhưng rất ư là ‘nghệ sĩ’,
đầy nét mỹ thuật pha chút lãng mạn đương thời…tại Phường 1 Quận Phú Nhuận(Sài Gòn).
Nhà điêu khắc tài hoa Nguyễn Thanh Thu vẫn mơ mộng nơi đất trời Việt nam, có người
tài trợ để ông thực hiện những tác phẩm điêu khắc để đời, như tượng Đầu Rồng có
tên Cửu Long Được Mùa…và ông sẽ dừng chân vĩnh viễn nơi quê hương Việt Nam, còn
nếu không có những điều kiên ưu đãi để ông
phát huy nghệ thuật điêu khắc… thì ông sẽ xách gói trở qua Mỹ tiếp tục sống cuộc
đời tị nạn…(trích ý trong bài viết về ‘ Tác giả Tượng Tiếc Thương’ của nhà văn
Văn Quang đăng trong Thiên Hạ Sự số 198 ngày 4-3-2007).
Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà quan trọng và có ý nghĩa đối với những người
từng phục vụ cho VNCH và thành phần dân chúng có cảm tình với chế độ cũ, còn đối
với Chánh quyền Việt Nam hiện tại thì NTQĐBH không có ý nghĩa gì cả, mà dường
như còn là cái gai trước mắt họ, nên việc chủ trương xoá bỏ NTQĐBH là giải pháp
tốt đối với họ, có lợi cho họ về nhiều mặt, xoá bỏ được mọi vết tích tàn dư, cắt
đứt được sự hoài niệm của dân chúng với chế độ cũ, sử dụng khu đất vào việc phát
triễn kinh tế và xây dựng xã hội…
Những người Việt ở hải ngoại cũng như ở trong nước quan tâm đến NTQĐBH
trong ý hướng muốn bảo tồn Nghĩa trang nầy, coi như một chứng tích lịch sử với
những công trình kiến trúc hiện hữu, một thắng cảnh, nhưng không biết can thiệp
hoặc thỉnh nguyện bằng cách nào ngoài những lời nói suông, tiếng nói không có một
chút sức mạnh của những người chiến bại, chỉ còn cách ngồi chờ việc gì đến sẽ đến
mà thôi.
Tôi viết bài nầy, không nhằm mục đích chính trị, cũng không nhằm khơi gợi lòng
hận thù, mà chỉ thuần là một kỷ niệm cá nhân đối với NTQĐBH trên hai năm tôi nhận
lãnh công tác an ninh trật tự tại xã Bình An, với tư cách một Trưởng Cuộc Cảnh
Sát. Tôi mong mỏi Chánh Quyền Việt Nam hiện hữu coi 16.000 tử sĩ người Việt chôn
tại Nghĩa Địa Xã Bình An nầy trong tinh thần ‘ Nghĩa Tử Nghĩa Tận’ và cho họ được yên giấc
nghìn thu tại nơi đây.
Nguyễn
Kim Lộc
(11-03-2007)