Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2019

TIẾNG NƯỚC TÔI

TIẾNG NƯỚC TÔI

Sống trong cảnh xa nhà, nhớ nước, mà nghe bản nhạc Tình Ca của Phạm Duy, với tiếng hát vượt thời gian của Thái Thanh, vẳng lên trong đêm thanh vắng, tôi chắc rằng những người Việt đang lưu lạc tha phương, khó mà ngăn được giây phút chạnh lòng, nhớ thuở xa xưa, nhớ tiếng ru của mẹ, nhớ Tiếng Hát Sông Lô, nhớ câu ca Quan Họ, nhớ tiếng hò mạn ngược, nhớ câu đối miền xuôi, nghe tiếng thời gian trôi dưới vòm trời hưng phế …

                  ‘ Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi ! Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi ! Tiếng ru muôn đời.’…

                  Tôi nghe tim tôi đang dậy lên một niềm tự hào về tiếng nước tôi, sao mà êm đềm quá, lúc nhẹ như gió thoảng mây bay, lúc dặt dìu như con suối chảy, như có hương tiếng, như có mật trong lời. Lời và nhạc của Phạm Duy đã hoà quyện vào tiếng hát của Thái Thanh  đưa bài Tình Ca bay bổng đến chín từng mây.
‘ Tiếng nước tôi ! Bốn nghìn năm ròng rã buồn vui. Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi !
Tiếng nước tôi ! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi. Thoát nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi !’

Thật tuyệt vời làm sao !

Tiếng nước tôi có một hấp lực như vậy đó. Cũng căn cứ vào các mẫu tự A, B, C…E, Ê... kèm theo năm dấu Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng, mà nghe sao lúc trầm lúc bổng, khi chơi vơi cao vút, khi lặng lờ chìm nghỉm đáy hồ ao. Tôi hãnh diện về tiếng nước tôi, tiếng nói của người dân Việt đi tìm tự do, vô tình mang theo trên đường vượt thoát làn sóng đỏ và cũng vô tình dàn trải mong manh trên tấm bản đồ thế giới qua hình thức các cộng đồng sắc tộc Việt Nam ti nạn Cộng Sản. Tôi rất mừng tiếng nước tôi được vang xa, tâm tình quê hương tôi được nhiều người hiểu thấu. Nước Việt Nam nhược tiểu bị Tàu đô hộ một ngàn năm và Tây cai trị đến gần một trăm, nhưng tiếng nói của dân tộc Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến vẫn tiềm tàng uyển chuyển theo dòng lịch sử đau thương. Tiếng nước tôi muôn màu muôn vẻ, đang được thế hệ tị nạn thứ nhất ân cần khuyên bảo thế hệ thứ hai giữ gìn và phát huy trong ý hướng ‘tiếng Việt còn, người Việt còn, người Việt còn nước Việt còn’ với niềm hy vọng trong tương lai, nước Việt Nam có tự do dân chủ thực sự và mãi mãi trường tồn.
Ôi tuyệt vời làm sao cho tiếng nước tôi !

‘Tôi yêu tiếng ngang trời. Những câu hò hờn giận không nguôi. Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi. Vững tin vào mộng đẹp ngày mai’
Nghe rây rứt làm sao…

Tiếng nước tôi không bằng tiếng Mỹ ở vị thế phổ thông trên thương trường thế giới, không bằng tiếng Pháp được chọn sử dụng trong các văn kiện hiệp ước ngoại giao quốc tế, cũng không bằng tiếng Y-Pha-Nho và tiếng Trung Quốc, có hàng tỷ người đang sử dụng, nhưng tiếng nước tôi có những nét đặc thù linh hoạt, huyền dịu trong lãnh vực thơ văn, như viên kim cương lấp lánh muôn màu trong kho tàng văn học Việt Nam, mà ít có nước nào có được, có nhiều bài thơ đọc xuôi đọc ngược đều có nghĩa, nhiều ẩn dụ mơ màng, nhiều điệp ngữ dễ thương,… tôi xin đan cử một vài thí dụ để chứng minh màu sắc trong tiếng Việt, như tĩnh từ ĐEN, dịch ra tiếng Mỹ là Black, tiếng Pháp là Noir, tiếng Tàu là Hắc, nhưng chữ ĐEN trong tiếng Việt được sử dụng huyền diệu hơn.
                  Chien noir           Black dog            Hắc cẩu               Chó mực
                  Chat noir             Black cat              Hắc miêu            Mèo mun
                  Coq noir              Black rooster       Hắc kê                Gà quạ
                  Cheval noir          Black horse          Hắc mã               Ngựa ô
                 
Thay vì dùng chữ ĐEN ta lại dùng chữ MỰC, MUN, QUẠ, Ô, để diễn tả một cách riêng tư cho từng loại thú, nghe rất hay, xác định hơn, như đã có trạng từ nằm trong đó, thí dụ Gà Quạ, diễn tả được màu đen, nhưng đen thế nào, thì ta có thể trả lời là đen tuyền, giống màu đen loài quạ, có nghĩa ngoài màu đen, con gà không có điểm thêm một màu nào khác. …hoặc chữ CHẾT dịch ra tiếng Pháp là MOURIR, tiếng Mỹ là TO DIE  hoặc PASS AWAY nhưng trong tiếng Việt được dùng theo tôn ty đặc biệt:
Nhà vua chết dùng chữ ‘băng hà’
Nhà sư chết dùng chữ ‘viên tịch’
Đại phu chết dùng chữ ‘tốt hay thốt’
Tướng chết theo thành dùng chữ ‘tuẩn tiết’
Kẻ sĩ hay người có tuổi từ 70 trở lên thì dùng chữ ‘thất lộc’ hay ‘ qui tiên’
Chiến sĩ chết được dùng chữ hy sinh
Người bình dân chết thường dùng chữ ‘tử’ hoặc ‘qua đời’ hoặc chữ ‘thác’ (sống khôn thác thiêng).
Hai thí dụ vừa kể trên cho ta thấy tiếng Việt vô cùng  phong phú.

Và sau đây là những câu tiêu biểu cách dụng ngữ trong văn chương Việt Nam mà khó có nước nào vận dụng được, như chữ ‘Ai’ trong mẫu chuyện người vợ mới cưới mang cơm ra đồng cho chồng, ngượng ngập e lệ gọi: “ Nầy ai ơi lên mà ăn cơm”.Và sau đó, để trả lời câu nói đùa của vợ, chồng hỏi lại: “Ai gọi ai lên ăn cơm đấy?”, người vợ trả lời: “Ai gọi ai lên ăn cơm, chứ còn gọi ai nữa!”(1) Một chữ  ‘Ai’ mà dùng cả ba ngôi không phải tuyệt lắm sao!
Xin mời các bạn đọc thêm vài thí dụ sau đây:
1/.  khi tả cảnh hàng liễu bị tuyết phủ trong khoảng đất trời hoang vắng, tác giả dùng ‘ẩn dụ’ rất thần tình…
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang!
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng!”
                                             (Xuân Diệu ?)

2/. Cách sử dụng điệp ngữ rất tuyệt vời trong bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vẳng chợ chiều
Nắng xuống chiều lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Bèo giạt về đâu hàng nối hàng
Trên sông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Không chút bờ xanh tiếp bãi vàng.
                                   
3/. Hoặc bài thơ của Hồ Xuân Hương tả Bánh Trôi Nước (một thứ bánh làm bằng nhân đậu xanh vo tròn và bột nếp bọc bên ngoài, lớn hơn quả trứng gà, nấu với nước đường gừng và khi ăn, cho vào chén một tí mè rang) tác giả tả rõ ràng như thế mà có người lại cho rằng bà đã tả cặp nhũ hoa của người phụ nữ, rồi từ đó tưởng tượng xa xôi. Thế có chết không chứ ! Tác giả viết rất thanh nhưng có người cứ giảng tục. Ý tôi muốn trình bày một bài thơ có hai ý nghĩa, ai muốn nghĩ thế nào cũng được.
‘Thân em thì trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc lòng tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.’

4/. Hoặc có những bài thơ có từng cặp chữ nói láy rất tài tình như dưới đây
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chú khiêng lên hết chiến khu rồi
Thi đua rồi lại thua đi mãi
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.
                                             ( tác giả ?)

5/. Các bạn xem chữ Quốc sau đây có còn là chữ Hán nữa không ? Hay đã thành tiếng Việt Nam tự lâu rồi. Chữ Quốc là danh từ riêng, anh Quốc. Chữ quốc là danh từ chung có nghĩa là nước….
‘Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời
Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời
Đặt tên cho anh anh là Quốc
Đặt tên cho anh anh là nước
Đặt tên cho người đặt tình yêu nước vào nôi.
Việt Nam đang sôi sôi lòng nước
Việt Nam đang sôi sôi lòng Quốc
Việt Nam đang đòi tự do hạnh phúc giống nòi’( 2)

Sau đây là một số tiếng nước ngoài đã được Việt hoá và được người Việt sử dụng nhuần nhuyễn như chữ xà phòng Ca Dom, chữ ga… đến độ không ai còn tưởng đó là chữ ngoại quốc nữa
‘Những ngày nghỉ học tôi thường tới
Đón chuyến tàu đi đến những ga
Tôi đứng buâng khuâng nghe tiễn biệt
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.(3)
                                            
Người Mỹ, người Pháp, người Trung Hoa hãnh diện về tiếng nước họ, tôi cũng hãnh diện về tiếng nước tôi, tiếng nước tôi rất lung linh huyền diệu như những thí dụ nói trên.
Và sau đây là phần tôi muốn chứng minh những lời tôi vừa trình bày là một sự thật hiển nhiên và nhân dịp nầy tôi xin tỏ lòng biết ơn những người ngoại quốc đã từng nghiên cứu và có những nhận xét vô tư về tiếng nước tôi:
‘-Ông G. Meillon người Pháp cho rằng tiếng Việt là một thứ  tiếng vừa văn chương vừa giàu nhạc điệu nhất thế giới’.
‘-Ông Frey một nhà ngữ học người Pháp  có lẽ nhận thấy những vận gốc của tiếng Việt đầy đủ quá( chính điều nầy khiến người Việt học bất cứ ngoại ngữ nào cũng rất chóng) nên đã nêu một giả thuyết táo bạo: “Tiếng Việt là mẹ các thứ tiếng”.
-Ông Pazzi người Ý nhận xét: “Ngôn ngữ Việt Nam là ngôn ngữ duy nhất trên thế giới có nhiều giọng điệu cung bậc…
Phải nghe người dân mỗi miền, người Bắc, hay Trung, hay Nam hát những dân ca quen thuộc với tiếng nói thuần tuý và giọng thuần tuý của họ, chúng ta mới thấy ý vị của giọng nói ấy đậm đà đến chừng nào.
Sự phong phú trong âm thanh lại được thay đổi qua nhiều miền đất của quê hương họ…
Nếu phải tô màu các các giọng nói ấy, người ta có thể vẽ một bản đồ Việt Nam thật đẹp. Có miền màu xanh, có miền màu hồng, có miền màu trắng, có miền màu vàng, đấy là chưa nói mức độ đậm lợt khác nhau…”(4)
Tiếng Việt Nam giàu âm thanh, nhiều màu sắc, dễ giúp cho các dịch giả Việt Nam thành công trong phần dịch thuật thơ và nhạc ngoại quốc. Mời các bạn thưởng thức phần dịch thuật các bài thơ dịch sau đây mà tôi cho rằng quá tuyệt vời:

Từ Thuở Chàng Đi
Từ ngày chàng bước chân đi
Cái khung dệt cửi chưa hề nhúng tay
Nhớ chàng như mãnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm.

(Nhà văn Ngô Tất Tố dịch từ bài thơ ‘Tự Quân Chi Xuất Hĩ’ của Trương Cữu Linh :Tự quân chi xuất hĩ- Bất phục lí tàn ki- Tự quân như nguyệt mãn- Dạ dạ giãm thanh huy.)

Xuân Oán
Đuổi dùm hộ thiếp con oanh
Đừng để nó hót trên cành trêu ngươi
Làm tan mộng thiếp đang say
Khiến không được đến Liêu Tây cùng chàng.

(Giáo sư Trần Trọng San dịch bài Xuân Oán của Kim Xương Tự: Đả khởi hoàng oanh nhi- Mạc giao chi thượng đề- Đề thời kinh thiếp mộng- Bất đắc đáo Liêu Tây.)


         Tiễn Biệt Trên Sông Dịch
Nơi đây từ biệt Yên Đan
         Máu hùng dựng tóc căm hờn lòng sôi
         Người xưa chừ đã đi rồi
         Hôm nay dòng nước còn trôi lạnh lùng.

(Giáo sư Trần Trọng San dịch từ bài thơ ‘ Dịch Thuỷ Tống Biệt’ của Lạc Tân Vương: Thử địa biệt Yên Đan,Tráng sĩ phát xung quang,Tích thời nhân dĩ một, Kim nhật thuỷ do hàn.)
         Còn rất nhiều bài thơ, bản nhạc dịch từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung Hoa…,mà các tác giả người Việt dịch rất tài tình, nếu đem đối chiếu, người ta không nghĩ đó là bản văn dịch… trường hợp Phan Huy Vịnh dịch bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, hoặc Thiếu Lăng Quân dịch nhiều bài thơ tiếng Pháp…Tôi đang có gắng sưu tầm để có một dịp nào đó viết thành bài cống hiến quí đồng hương.

         Và sau đây tôi muốn trình bày thêm cùng các bạn một vài thể thơ rất đặc biệt mà tôi tin chắc có nước nào có được.
Thể thơ Vĩ Tam Thanh
         Tai nghe gà gáy tẻ tè te
         Bóng ác vừa lên hé hẻ hè
Non một chồng cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở loẻ loè loe
Chim, tình bầu bạn kia kìa kỉa,
Ong, nghĩa vua tôi nhe nhẻ nhè,
Danh lợi mặc người ti tí tỉ.
Ngủ trưa chưa dậy khoẻ khoè khoe.
                                    ( Vô Danh)
Thể Song Điệp
         Vất vất, vơ vơ cũng nực cười !
         Căm căm, cúi cúi có hơn ai ?
         Nay còn chị chị, anh anh đó;
         Mai đã ông ông, mụ mụ rồi.
         Có có, không không lo hết kiếp;
         Khôn khôn, dại dại chết xong đời.
         Chi bằng láo láo, lơ lơ vậy,
         Ngủ ngủ, ăn ăn nói chuyện chơi.
                                             (Vô Danh)
Thể thơ Thuận Nghịch Đọc

                  Cảnh Hồ tây
                  (Bài đọc xuôi)
Đây vui thực lạ cảnh Tây Hồ !
Trước tự trời kia khéo vẽ đồ.
Mây vẫn nước xanh màu tõ ngọc ,
Nguyệt lòng hoa thắm vẻ in châu;
Cây la, tán rợp, từng cao thấp;
Sóng gợn cầm tâu dịp nhỏ to
Bày khéo thú vui non nước đủ;
Tây-hồ giá ấy dễ đâu so.

         (Bài đọc ngược)
So đâu dể ấy giá hồ Tây !
Đủ nước non vui thú khoé bày,
To nhỏ dịp tâu cầm gợn sóng,
Thấp cao từng rợp tán la cây.
Châu in vẻ thắm hoa lồng nguyệt.
Ngọc tỏ màu xanh nước lộn mây.
Đồ vẻ khéo kia trời tự trước;
Hồ Tây cảnh lạ thực vui đây.
                           (Vô Danh)
(Bài thứ nhất, bạn đọc xuôi từ chữ thứ nhất câu 1 đến chữ thứ 56 câu tám; bài thứ hai, bạn đọc theo trình tự từ chữ 56 ngược lên chữ số một, hai bài thơ đều có nghĩa hẳn hoi).
 Bạn thử giúp tôi xem có bài thơ ngoại quốc nào viết được như vậy không ?

 Các bạn trẻ Việt Nam đang ở khắp nơi trên thế giới có dịp nghiên cứu ngôn ngữ các nước, hãy nghiệm xem lời tôi trình bày có thái quá không? Có nhiều cái ‘Ta’ trong đó không ? Có phải tại vì đó là tiếng Việt nên được người Việt ca ngợi không ? Hay đó là sự thật hiển nhiên. Trong thời gian qua đã có nhiều người ngoại quốc nghiên cứu tiếng Việt và xác nhận: “Tiếng Việt là một thứ tiếng nhiều màu sắc, giàu âm thanh, nhưng rất đơn giản và dễ học nhất, chữ dài nhất trong chữ Việt là chữ NGHIÊNG, có bảy mẫu tự, kết thành một vần (monosyllable) và chỉ phát ra một âm, trong khi đó tiếng dài nhất trong tiếng Pháp và cũng dài nhất trên thế giới là chữ ANTICONSTITUTIONNELLEMENT(hai mươi lăm mẫu tự) kết thành nhiều vần (polysyllable) phát ra một chuổi dài chín âm, và chữ nầy dịch ra tiếng Việt là đối hiến hay nghịch hiến.
 Tôi không có dịp nghiên cứu về ngôn ngữ học, nên không hiểu biết nhiều về nguồn gốc và sự biến thiên của tiếng Việt qua từng giai đoạn lịch sử, tôi dự định sẽ tìm hiểu thêm vấn đề nầy trong sách của các Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Hoà, Đàm Trung Pháp… Trong phạm vi bài nầy tôi chỉ nêu lên vài sự hiểu biết hạn hẹp của riêng tôi về cái hay, cái đẹp tôi cảm nhận được trong tiếng Việt, trong văn chương Việt Nam mà tôi có dịp học qua nơi trường học hoặc vô tình thu lượm được ở trường đời.
Tôi nghĩ rằng, tiếng nói của bất cứ quốc gia nào cũng hay, cũng đẹp đối với dân tộc đó, vì ‘Tiếng nói’ ngoài việc giữ vai trò quan trọng trong việc truyền đạt ý tưởng cho nhau, còn hoà quyện vào nền văn hoá dân tộc để trở thành tiếng nói thiêng liêng của dân tộc ấy. Ý thức được điều nầy, nên tôi không bao giờ dám nói ‘Tiếng Việt hay tiếng nước tôi là hay nhất, mà tôi chỉ xin trình bày cái may mắn đưa đẩy cho dân tộc Việt Nam có được tiếng nói giàu âm thanh, màu sắc và có nhiều nét đặc thù duyên dáng trong văn thơ như tôi đã có dịp trình bày nơi phần trên.
Tôi yêu tiếng Việt Nam vì tôi là người Việt Nam, tôi hãnh diện về tiếng nói nước tôi. Tôi chân thành ghi ơn các bậc tiền nhân cùng các ân nhân đã dự phần bồi đấp cho tiếng nước Việt có một vị thế như ngày hôm nay…
Viết đến đây, tôi lại nhớ đến chị Ỷ Lan, tác giả quyển ‘Quê Nhà’, tôi có dịp đọc qua cách đây không lâu. Những bài, chị viết về quê hương Việt Nam, rất duyên dáng và chính chị đọc qua làn sóng của đài BBC vào khoảng thập niên 80…Tôi rất quí mến Ỷ Lan. Ỷ Lan tên thật là Penelope Faulkner, người gốc Hồng Mao. Mãi đến giờ phút nầy tôi vẫn chưa hiểu thấu tại vì sao Ỷ Lan lại đam mê học tiếng Việt, tìm hiểu văn hoá Việt Nam, viết văn chương Việt Nam và xin nhận Việt Nam làm quê hương, mặc dù chị chưa một lần bước chân đến đất nước Việt Nam. Bài chị viết về quê hương Việt Nam đọc trên đài BBC nghe rất cảm động, phần đông người Việt cứ tưởng chị là người Việt Nam, vì chị hiểu biết quá nhiều về phong tục tập quán Việt Nam. Những bài chị viết như Lạc Long Quân với Âu Cơ…đã làm nứt lòng hàng triệu người Việt Nam, trong số đó, có thi sĩ Bàng Bá Lân và nữ sĩ Mộng Tuyết, hai thi sĩ tiền bối nầy đã có dịp làm thơ khen ngợi. Chị làm cho người Việt nổi lòng ghen với chị, tại sao chị là người Anh mà chị viết và đọc tiếng Việt đúng quá, hơn hẳn một số người Việt (trong số đó có tôi) còn nói ngọng nghịu tiếng nước mình cái ‘lon’ lại nói cái ‘non’, cái quần lại đọc cái quần(g), chữ ‘về’ lại phát âm thành ‘dề’, chữ ‘rồi’ lại đọc thành ‘gồi’ hoặc những người Việt sanh ra tại Mỹ, lại đọc tiếng Việt lơ lớ không bằng chị, một người Anh chánh gốc và cũng từ dạo ấy, tôi làm một bài thơ thương mến chị, nhưng viết rồi lại để đó, nay có dịp viết về bài Tiếng Nước Tôi, tôi lại cho vào đây để cám ơn chị. Tôi không có địa chỉ của chị để gởi bài thơ nầy đến tặng chị, nhưng tôi tin rằng rồi đây, một ngày nào đó, chị cũng sẽ đọc được thôi, rồi chị sẽ ngạc nhiên và thầm nghĩ rằng có thêm một người thương mến mình lâu rồi mà mình không hay biết.

                           Thương Mến Ỷ Lan

Ỷ Lan ! Tôi mến chị, vì chị yêu quê tôi
Chị học tiếng Việt rồi, viết ‘Quê Nhà’. Ôi tuyệt !
Chị nhận non nước Việt làm quê hương của mình
Quí chị một tấm lòng tràn đầy tình nhân ái.

Con tàu ra hồ hải, cứu vớt người vượt biên
Trong ba chiến dịch liền, đứng hàng đầu tranh đấu
Ôi ! Ỳ Lan yêu dấu, thương chị quá chị ơi !
Mỗi lần nhớ quê tôi là lần tôi nhớ chị.

Tiếng nước tôi khó dễ ? Sao chị học như chơi !
Viết như nước vỡ bờ, mạch văn tràn lai láng
Một tâm hồn trong sáng, chị tìm giống Lạc Hồng
Chị viết ‘ Cọp Xuống Hang’, ‘Sài Gòn Trong Tưởng Tượng’.

Chị ơi ! Tôi trịnh trọng đặt tên chị lên ngai
Để có dịp ngày ngày, tôi tâm tình với chị
Một phụ nữ phương Tây, biết thương nòi giống Việt
Biết vận dụng tiếng Việt, làm lợi khí đấu tranh.

Một viên ngọc long lanh toả muôn màu sáng chói
Chị ơi ! Tôi đợi mãi, thầm ước có một ngày
Siết nhẹ đôi bờ vai, cho thoả lòng mong nhớ.
Chị ơi ! Thương mến chị… vì chị yêu quê tôi.

         Viết bài nầy, tôi có ý trình bày với đồng hương Biên Hoà cùng các bạn trẻ người Việt đang định cư rãi rác trên bảy mươi quốc gia trên thế giới, phần nào về cái hay, cái đẹp, cái tuyệt vời trong tiếng Việt mà tôi cảm nhận được với ý mong các bạn cũng có cảm nhận nầy và cố gắng thu thập cái hay cái đẹp của xứ người, từ ý lẫn lời và cho chuyển tải vào nền văn học nước nhà để làm cho kho tàng tiếng Việt ngày thêm phong phú, đồng thời tôi cũng xin nhắc nhở quí ông anh bà chị của tôi nên cho con cháu học thông thạo tiếng Việt để tránh thiệt thòi cho con cháu sau nầy và cũng để tránh cho người đời có dịp cười chê rằng : ‘Người Việt Nam, nói không rành tiếng Việt Nam, như thế mà cứ xưng là trí thức’. Có thể có một vài vị không đồng ý về cách trình bày của tôi vì cho rằng tôi quá đề cao tiếng Việt và nếu có trách… thì tôi cam chịu, chứ tôi không thể nào viết khác với những điều mà lòng tôi cảm nhận một cách vô tư được.Tôi xin kết thúc bài viết nầy bằng bài thơ sau đây:

                  TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI

                  Tôi yêu tiếng nước tôi từ thuở,
Mẹ hiền ru vần điệu cao dao,
Bổng trầm êm dịu làm sao
Những lời mộc mạc những câu thâm tình.
Tôi yêu tiếng quê mình biết mấy !
Phương trời xa tôi vẫn mang theo,
Nhớ từng trang sử câu thơ
Núi xanh sông thắm bên bờ đại dương.
Tiếng nước tôi ngập tràn chiến tích,
Chống ngoại xâm, chống Pháp, chống Tàu
Từ Nam Quan đến Cà Màu
Một lòng vì nước diệt thù giữ quê.
Tiếng nước tôi thắm tươi vần điệu
Từng lời thơ êm dịu làm sao
Khi vui dấu sắc vươn cao
Lúc buồn huyền nặng đệm vào trầm êm.
Tiếng nước tôi sắc, huyền, hỏi, ngã
Nặng và không …diễn tả bổng, trầm.
Tiếng nước tôi tiếng độc âm
Nhưng giàu nhạc tính, ẩn lòng từ bi.
Những khúc vui điểm ghi luyến láy,
Câu ngược xuôi có nghĩa như thường,
Những vần điệp ngữ dễ thương
Những lời ẩn dụ vương hương ý đời.
Tiếng nước tôi tuyệt vời biết mấy
Mỗi chữ đen từ ấy diễn ra
Mèo mun, chó mực, ngựa ô
Thâm trầm ý nghĩa sắc màu lung linh.
Viết đến đây tôi xin dừng lại
Sợ có người chê… ‘quá lời khen’
Khi nào bạn có rảnh rang
Bước vào tiếng Việt mà chan ý đời.

                                                                     Nguyễn Kim Lộc
                                                       Chicago, ngày 17-09-05

(1) và (4) trích trong quyển Người Việt Đáng Yêu của nhà văn Doãn Quốc Sĩ (trang99…), (2) Trong bài ‘Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc của nhạc sĩ Phạm Duy, (3) thơ của thi sĩ Tế Hanh.


DỰ LỄ VÍA ĐỨC ÔNG TRẦN THƯỢNG XUYÊN HOUSTON TEXAS NGÀY 13-11-2011

DỰ LỄ VÍA ĐỨC ÔNG TRẦN THƯỢNG XUYÊN
TẠI HOUSTON-TEXAS

Tôi về Lễ Vía Đức Ông
Houston thân thiết mở vòng tay ôm
Người Biên Hoà khắp bốn phương
Hân hoan tưởng niệm cội nguồn xa xưa

Tâm tình trà sáng tiệc trưa
Niềm vui san sẻ cho vừa luyến thương
Dù xa mấy vạn dặm trường
Mùi hương hoa bưởi mãi vương ý đời

Sông Đồng núi Bửu quê tôi
Mỗi lần nhắc đến nghẹn lời vấn vương
Tha hương nắng gió bụi đường
Cầu Gành vẫn nối tình thương xứ người

Dòng sông tâm tưởng nổi trôi
Cuốn bao kỷ niệm chuỗi đời ngày qua
Người đi bóng dáng nhạt nhoà
Vẫn thầm mơ một khúc ca…huy hoàng

Vẫn mong một sáng mùa Xuân
Tr về quê mẹ bên dòng Phố Giang
Thành tâm đứng trước Tân Lân
Ngôi đình ngày cũ thắp nhang thanh bình

       Nghe tin Lễ Vía Đức Ông Trần Thượng Xuyên, một vị thần có đền thờ tại Đình Tân Lân (Biên Hoà-Việt Nam), sẽ được tổ chức vào ngày 13-11-2011, tại Hội Trường Chùa Ông Bổn (Houston-Texas), chúng tôi quyết định về tham dự và luôn tiện viếng thăm gia đình người anh cùng bạn bè thân thuộc.
       Thoạt tiên, tôi định ở khách sạn Hilton Garden Inn tại Houston để có dịp gặp gỡ đồng hương Biên Hoà và thân hữu từ các tiểu bang xa, về tham dự Lễ, như đã được thông báo:
       Virginia: Dương Thị Hạnh, Nguyễn Loan, Trần Giai Thoai & Lê Ngọc Dư
       Florida: Nguyễn Văn Thuyết& Nguyễn Thị Kim
       Massachusetts:Trần Văn Xinh
      Washington: Lê Phương, Nguyễn Châu
       Maryland: Phùng Thanh, Dương Anh & Richie Dương, Lê Trang Ngọc, Dương Chi Giao& Miley Dương
       Georgia:Lê Văn Thông & Trần Thị Ánh, Huỳnh Văn Thôi, Nguyễn Thị Huê, anh chị Nguyễn Văn Nhì
New Mexico:Tiana Navarrette & thân nhân
Illinois: Nguyễn Kim Lộc &Trần Thị Nghĩa
       California: Giáo sư Hà Tường Cát, thi sĩ Trương Minh Sung &Trương Cao Mai, Nguyễn Văn Lợi & Thân Thị Ngọc Mai, chị Đào Bích Ty, Bửu & Nguyễn Phượng Liên, Victor Trần Văn Thắng &Trina Nguyễn T. Duyên Trang, Ngyễn Bá Hoàn & TrầnThịHạnh, Vivian Võ, Mindy Nguyễn,  Lê Văn Trí
       Texas: Nguyễn Văn Đức & phu nhân, Nguyễn Minh Quang & Bông, Lâm Phú & Lê T. Thuỷ, Bảo Chu & phu nhân, Tiêu Cửu & phu nhân, Kiêm Bruning & Phu quân.
      
       Nhưng khi đến Houston, Texas, tôi lại đổi ý, thay vì ở khách sạn, tôi đến ở nhà của anh chị tôi để tiện việc hàn huyên chuyện gia đình cho phải đạo vàcũng tiện cho các cháu giúp việc đưa đón chúng tôi đi đóđi đây thăm bạn bè…

        Tôi đến phi trường Houston (IAH) vào lúc 01 giờ 38 phút và bắt đầu nhận điện thoại của bạn bè, đồng hương Biên Hoà và thân hữu cư ngụ tại Houston (TX), chào mừng và mời tiệc ở nhà hàng hoặc tại tư gia…Ngay buổi chiều ngày hôm ấy, chúng tôi dự buổi cơm thân mật với  với ông hội trưởng Lâm Sĩ Đắt tại quán “BẠN TÔI”, với những món ăn thuần tuý Việt Nam, cá kho tộ, dưa giá, canh chua cá bông lau, cá hồng chiên, và gà hấp dầu mè…Trước khi rời quán, tôi có khen các món ăn ngon và rất hợp khẩu vị, bà chủ tỏ ra vui mừng và mời tôi mai mốt trở lại ăn -  Tôi hẹn bà chủ “năm sau…ngày nầy” bà chủ tỏvẻ ngạc nhiên….nhưng bà vui trở lạingay, khi nghe tôi nói “ tại vì tôi ở quá xa bà chủ ơi, xa tít mãi thành phố Chicago” . Sau đó, chúng tôi đến uống cà phê Pháp ngon tuyệt và thưởng thức bánh Beignets tại Quán Ông Già (Chez Beignets) trong khu Sàigòn Houston Plaza. Tại đây, có loại bánh bột, mùi vị hơi giống “bánh tiêu” của người Hoa, nhưng khác hình dạng và hương vị rất đặc biệt.
        Trưa ngày 11-11-2911, có buổi tiệc tại nhà hàng Tường Ký với ông bà Giáo sư Trần Thượng Thủđược ông hội trưởng đưa đến, cùng gia đình anh vợtôi Hà Đăng Minh và cháu Nguyễn Mai và đồng hương Trần Văn Xinh từ Massachusetts vừa đến Houston. Chiều cùng ngày, chúng tôi đến dự tiệc tại nhà của người em kết nghĩa Nguyễn Văn Đông (phu quân của nhà văn  Nguyên Nhung), cùng với hai người khách cũng là đồng hương Biên Hoà, thi sĩ Minh Lương Trương Minh Sung và phu nhân Trương Cao Mai. Được đãi món cá Catfish nướng cuốn bánh tráng và mì vịt tiềm, do đầu bếp Nguyên Nhung nấu đúng lửa và gia vị tuyệt cú mèo.
        Sáng ngày 12-11-2011, tôi đến thăm gia đình nhà văn Trường Giang Nguiễn Trung Lynh và cùng đi ăn sáng tại quán phở DANH trong khu siêu thị Hồng Kông 4, sau đó chúng tôi đến thăm anh Lê Văn Năm,Cố Vấn Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Biên Hoà, cũng là người anh đáng kính của tôi, đã 85 tuổi, đang trong tình trạng sức khoẻyếu kém.
            Đến chiều cùng ngày, vui thật là vui, đồng hương Biên Hoà đúng hẹn lại đến nhà hàng KIM SƠN, khoảng 120 người, choáng cả nửa gian nhà hàng, gọi là Buổi Hội Ngộ trước ngày Lễ Vía Đức Ông. Tại đây, ngoài những những đồng hương nêu trên, tôi có dịp gặp một số đông bè bạn và em cháu khác, như anh Trần Đức Tuấn (Florida), anh chị Trần Thuỵ, anh chị Harry Trần,  anh chị Nguyễn Văn Nhì (Georgia), anh chị Nguyễn Văn Thuyết(Florida), anh chị Thomas Thái, anh Trịnh Đình Hoà (người Xã Hiệp Hoà, Biên Hoà), vợ chồng nhà văn Nguyên Nhung, chị em cô Giàu (con bà Năm Trầu), con gái và rể của anh Lưu Văn Của, con và rể của bà Tư Hiếu, con và dâu của anh Tám Hạnh Phước, cô Lang Wells (cháu ngoại của ông Cả Lâu/Đình Tân Lân Biên Hoà) và phu quân, cùng một số đồng hương khác tôi không nhớ tên…….Rất đặc biệt và bất ngờ có sự xuất hiện của phu nhân ông hội trưởng, một phụ nữ rất hiền lành, được nhiều người mến mộ về cung cách , nhưng luôn bận rộn tại chợ Tân Bình,  cũng đã cố gắng sắp xếp mọi công việc,  để đến chào mừng quí đồng hương và thân hữu trong khung cảnh đột nhiên rộn rã vui cười

        Sáng sớm ngày 13-11-2011, tôi đến khách sạn HILTON GARDEN INN để chào mừng đồng hương rồi cùng đến quán phở Điện, dùng bữa sáng, trước khi đi đến Hội Trường chùa Ông Bổn dự Lễ Vía Đức Ông Trần Thượng Xuyên.
            Hội trường rộng lớn, đồng hương Biên Hoà và thân hữu, khoảng hơn 250 người y
phục chỉnh tề đến tham dự. Một bàn thờ trang trí theo màu sắc cổ kính, trang nghiêm  được dựng lên cùng đầy đủ bông hoa, bánh trái, nhang đèn. 
Trong bầu không khí trang nghiêm, anh Nguyễn Văn Ngàn, người dẫn chương trình, trình bày ngắn gọn:
-Về địa điểm hành lễ tại hội trường Chùa Ông Bổn và lòng ưu ái của Ban Chấp Hành chùa nầy dành cho Hội Ái Hữu Biên Hoà.
 -Đề cập đến người đã có công sáng lập Ban Tế Tự Lễ Vía Đức Ông Trần Thượng Xuyên mười năm qua, là ông Từ Phước Hạnh, đã qua đời cách nay vài tuần, để lại trong đồng hương Biên Hoà nhiều thương mến.
-Đề cập về số đông đồng hương Biên Hoà và thân hữu, trên 50 người, từ các tiểu bang xa xôi về dự lễ…
Tiếp đến, thủ tục chào quốc kỳ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà được cử hành.Quốc ca trổi lên. Phút mặc niệm tiền nhân dầy công dựng nước, những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua, cùng những thường dân đã chết oan uổng trên đường vượt biển, vượt biên, cũng được thể hiện trang nghiêm.
Kế đến, ông Lâm Sĩ Đắt phát biểu lời chào mừng và tỏ lòng cám ơn quý đồng hương Biên Hoà và thân hữu đã đến tham dự đông đảo…
Tiếp đó, Giáo sư Trần Thượng Thủ, một hậu duệ đời thứ 13 của Đức Ông, được giới thiêu lên trình bày “Tiểu Sử và Công Đức của Đức Ông”, Người đã có công  khai phá và phát triễn vùng đất Nông Nại, một vùng đất rộng lớn bao gồm nhiều tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Barịa, Phước Long...), thành những phố thị trù phú, an bình; dân chúng sống trong sự an cư lạc nghiệp.
 Ông Trần Thượng Thủ vừa dứt lời…. chiêng trống bát nhã rộn rã nổi lên, bốn kỳ lân xanh, vàng, đỏ, tím,  xuất hiện múa lạy trước bàn thờ Đức Ông và chào mừng quan khách, trong lúc  ông Lê Văn Trưởng làm Chánh Tế và đoàn học trò lễ tề tựu trước bàn thờ Đức Ông, từng bước tiến hành nghi thức tế lễ truyền thống dành cho một vị tướng đã lập nhiều công trạng cho đất nước Việt Nam, xứng danh "Sinh vi tướng, tử vi thần".             Tiếp theo đó, mọi người lên đốt nhang,cung kính tưởng niệm, lễ bái trang nghiêm, nguyện cầu theo niềm tin tưởng riêng.
Bốn kỳ lân tái xuất hiện, múa lạy bàn bàn thờ Đức Ông và cám ơn quý đồng hương Biên Hoà và quan khách; đồng thời, các môn sinh của đoàn lân biểu diễn võ thuật môn phái Thiếu Lâm Tự.
            Trong khi mọi người đi lấy thức ăn gọi là hưởng lộc..... cô Đào Bích Ty, một thân hữu, từng là giáo sư dạy trường Trung Học Tân Uyên và có nhiều kỷ niệm với Biên Hoà, tự nguyện góp vui, ngâm bài thơ "Biên Hoà" của tác giả Lê Tuấn Đạt.

Biên Hoà có núi Bửu Long
Có Cù Lao Phố trên dòng Đồng Nai
....
Cầu Gành nghiêng bóng chiều quê
Tân Lân đền cũ câu thề còn ghi
....
Ai hò hẹn, ai đợi chờ
Dốc xưa trường cũ còn mơ Ngô Quyền
....
Đất đai sinh nghĩa đậm đà
Yêu nhau từ Bưởi đơm hoa đến giờ
....
Biên Hoà, hay một bài thơ
Để người xa xứ đến giờ còn thương

            Cô có giọng ngâm truyền cảm, được nhiều đồng hương Biên Hoà mến mộ. Buổi lễ chấm dứt, tôi một lần nữa bắt tay chào và hẹn ngày tái ngộ với quý anh Huỳnh Văn Bé-cựu Quận Trưởng Công Thanh (Biên Hoà), anh Nguyễn Văn Chính-cựu trưởng Phòng Quân Sự Toà Hành Chánh Biên Hoà, vợ chồng em Lý Hoài Đức, bạn Nguyễn Văn Học-cựu Sĩ Quan Sở 3 An Ninh Quân Đội, anh Quang-Võ Bị Đà Lạt (biệt danh Quang cờ tướng), bạn Đỗ Cao Tuy-Chi Khu Đức Tu-Biên Hoà), anh Nguyễn Bửu Lân (Phòng Truyền Tin/Toà Hành Chánh Biên Hoà), bạn Huỳnh Thôi (Trưởng Ban 5 Chi Khu Long Thành), Nguyễn Văn Sơn(Quân Tiếp Vụ/Sài Gòn) …..Mọi người lần lượt ra về với vẻ mặt vui tươi  vàtâm hồn thoải mái.
        Đến chiều ngày cùng ngày (13-11-2011), chúng tôi đến dự một buổi tiệc chia tay do Hội Ái Hữu Biên Hoà khoản đãi, những đồng hương và thân hữu ở phương xa về dự Lễ Vía Đức Ông, tại nhà hàng FUNG ‘S KITCHEN. Dịp nầy, tôi có dịp chuyện trò với các chị em của của ông hội trưởng Lâm Sĩ Đắt (chị Ba, cô Bảy và phu quân, cô Huyền và phu quân, cô Út và phu quân…ngồi chung bàn đã đặt trước, là những người đã từng tỏ lòng mến mộ tôi, qua những dòng văn thơ xứ bưởi).
            Ngày 14-11-2011, chúng tôi được người cháu Hà Thị Hiền mời thưởng thức hủ tiếutại quán PHÁNH KÝ ….trước khi ra phi trường George Bush để trở về trú quán Chicago–Illinois.
            Ngồi trên máy bay, tôi miên man suy nghĩ về “Tình Đồng Hương xứ Bưởi”vàbuổi  “Lễ Vía Đức Ông Trần Thượng Xuyên” tại Hội Trường Chùa Ông Bổn Houston năm nay, mà không thể không nói lên lời khâm phục Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Biên Hoà Texas đã làm một việc có ý nghĩa và thành công, từ việc luyện tập hành lễ thông thạo, cũng như  mướn hơn 25 phòng trọ khách sạn HILTON GARDEN INN, tổ chức hai buổi tiệc và lo ăn sáng tại quán phở ĐIỆN, khu Sàigòn Houston Plaza, cho hơn 50 đồng hương và thân hữu đến từ phương xa; cả việc ngoại giao khéo léo với  Ban Chấp Hành Ban Hội Triều Châu Houston, đểđược ưu ái cho mượn Hội Trường Chùa Ông Bổn, toạ lạc tai số 10600 Turtlewood Ct, Houston Texas 77072, một nơi rộng rãi, khung cảnh đẹp, rất thuận tiện cho việc tổ chức cúng tế trang nghiêm.
  
Chicago, ngày 16 tháng 11năm 2011
Nguyễn Kim Lộc người xứ Bưởi